Pages

Tuyển Tập Các Bài Sám 5


55 Bài Sám Văn Phổ Thông
Tái Bản Lần Thứ 3, (Có Sửa Chữa Bổ Sung)
Đồng Bổn biên tập - Thành Hội Phật Giáo TP. Hồ Chí Minh  - Phật Lịch 2541



Tập V

Phần Thứ Năm
Các Bài Sám Văn Thái Bình

44. SÁM THÁI BÌNH (Cầu nguyện thái bình I)
Gieo mình trước tọa liên đài,
Chí thành đảo cáo bi ai nguyện cầu,
Lòng vì khắp hết năm châu,
Thay cho thiên hạ toàn cầu nhơn dân. 
Nguyện mười phương Phật ai lân,
Chín trời tạo hóa thánh thần oai linh,
Đoái thương ngũ trược chúng sanh, 
Cõi trần kiếp sát đao binh tai nàn,
Cùng người ngổ nghịch bạo tàn,
Trái ngang phép nước gây đàng chiến tranh,
Mưu sâu chước độc sẵn dành,
Phá tan bờ cõi cuộc thành thiên công,
Giết người máu chảy thành sông, 
Thây trôi mặt biển xương chồng khắp nơi, 
Uế oan hơi mịt khắp trời,
Chết thời tàn tệ sống thời chẳng an,
Tới đâu cửa nát nhà tan,
Đất bằng thành thị, gò hoang lầu đài, 
Lẫy lừng đấu trí đua tài, 
Của đời chẳng tiếc đồng loài chẳng thương, 
Làm cho thiên hạ nhiễu nhương,
Đón ngăn bốn bể tuyệt đường sanh nhai,
Dân lành giết hại hoài hoài,
Thây che mặt biển nước phai màu hồng,
Xiết bao tai nạn chập chồng, 
Dưới sông đã hại trên đồng cũng âu,
Họa gieo khắp hết hoàn cầu,
Tiếng than như sấm hơi sầu như mây, 
Oán thay cho đến cỏ cây,
Thảy đều thọ hại chầy ngày thảm thương, 
Thấy đời tai nạn phi thường, 
Phút liền động niệm cảm thương cho đời. 
Lòng thành chúc tụng hôm mai, 
Phần hương đảo cáo nguyện mười điều ra: 
Một là nguyện đức Di Đà,
Cầu xin xuống phước an hòa khắp nơi, 
Văn minh bình đẳng độ đời, 
Dân an lạc nghiệp nơi nơi thái hòa, 
Hai là nguyện đức Thích Ca,
Chuyển đời ly loạn hóa ra thái bình,
Mở mang vận thái văn minh, 
Vật người thơ thới nhơn tình trung lương,
Ba là nguyện Chuẩn Đề Vương,
Thần thông dẹp hết chiến trường bốnphương,
Độ người ngổ nghịch bạo cường, 
Bỏ tà về chánh một đường thiện tâm.
Bốn là nguyện đức Quan Âm, 
Độ người oán trọng thù thâm thuận hòa,
Độ đời tai nạn xảy qua, 
Cùng người tật bịnh đều là an thuyên. 
Năm là nguyện đức Phổ Hiền, 
Độ người chấp chánh giữ quyền an dân, 
Bốn phương tương ái tương thân, 
Đồng tuân phép nước thảo thân kính nhường. 
Sáu là nguyện Địa Tạng Vương, 
Độ người siêu lạc bốn phương đặng về,
Cùng là người thác tư bề, 
Hồn linh độ hết đồng về Tây phương.
Bảy là nguyện Tứ Thiên Vương, 
Thái bình đem lại như Đường, Nghiêu xưa.
Bốn mùa thuận tiết gió mưa, 
Nhơn phong, vật thụ, trẻ già hân hoan, 
Tám là nguyện với Tam Quan,
Khiến người đạo tặc hung hoang về lành, 
Bốn phương hải yến hà thanh, 
Nhà sanh con thảo nước sanh tôi hiền.
Chín là nguyện đức Hoàng Thiên, 
Hộ cho thế giới dứt liền đao binh, 
Á Âu như đệ như huynh,
Tương thân tương ái hòa bình giao liên.
Mười là nguyện các Thánh Hiền, 
Cầm cân tội phước phân minh chỉ đàng,
Tiêu trừ tất cả tai nàn, 
Dứt cơn khói lửa độ an dân lành.
Mười điều phát nguyện chí thành,
Cầu cho bá tánh tu hành thiện duyên,
Tâm thành đảo cáo chư Thiên,
Cầu xin giáng phước xuống miền Nam bang.
Tiêu trừ tất cả tai nàn, 
Quan hiền, đức chánh, trị an nước nhà, 
Bốn mùa mưa thuận gió hòa,
Dân an quốc thới trẻ già khương ninh, 
Trai thời học thuật xảo tinh,
Bá công Bá nghệ văn minh anh hùng,
Gái thời đức hạnh nữ công, 
Tài năng mỹ thuật sánh đồng trượng phu,
Người người tâm chánh thân tu, 
Hưng nhơn hưng nhượng đức phù minh tân,
Chánh chơn bố đức thi ân, 
Lập đời thạnh trị lê dân thái bình,
Rày mừng gặp hội minh tinh,
Nguyện cho thiên hạ khương ninh thọ trường.
 

- Bài do Tổ Huệ Đăng chùa Thiên Thai - Bà Rịa trước tác khoảng năm 1930. Trích trong kinh Tam Bảo diễn nghĩa của Tổ đình Thiên Thai ấn hành 1994. - So với bản in trước của tuyển tập, có sửa chữa lại rất nhiều.
 
45. SÁM TỊNH ĐỘ  (Sám phát nguyện IV) 
Qui mạng lễ Từ Tôn ba cõi, 
Thệ làm Tăng độ giới hữu hình, 
Chúng con nay kính bày trình, 
Trải bao nhiêu kiếp chịu mình trầm luân.
Bởi tham dục và sân, si ái,
Do vô minh vọng khởi tưởng mơ, 
Lâm vào địa ngục tam đồ, 
Kết xoay thân thuộc chắc bồ oan gia.
Lòng chưa tín chưa nghe Phật pháp,
Thánh Tăng và trí thức khó gần, 
Mẹ cha sư trưởng trọng ân, 
Sanh thành dưỡng dục dạy răn nên người.
Ơn dưỡng dục, còn thì chưa đáp, 
Mang ơn sâu thế phát qui y, 
Từ bi thọ được thân nay, 
Thân tâm nhuần gội ơn dầy biết bao.
Nay xét lại hồi nào vô thỉ, 
Gốc tội dầy tự ấy tạo ra, 
Trước ngôi Đại giác ba toà, 
Con nay rũ sạch hết mà trần duyên.
Cầu tâm địa hốt nhiên khai phát,
Được phước may, gặp Phật pháp môn, 
Minh sư gặp được sớm hơn,
Khai thông trí huệ, chướng hôn sạch liền.
Con chí quyết tham thiền học đạo, 
Dùng giới hạnh, nhuận báo sắc thân, 
Mai chiều công khóa rõ phân, 
Thân tâm chuyên chú trầm luân dứt lìa.
Đời sau ra những khi sanh lại,
Mỗi kiếp đều nguyện phải làm người,
Hoặc làm Tăng lữ mà thôi, 
Diễn bày mở nói khắp nơi Đại thừa. 
Trong khổ hải thuyền từ quyết chống, 
Nguyện vớt lên hết giống hàm linh,
Bao nhiêu các loại hữu tình, 
Con nguyện độ hết đồng sanh đồng về.
Về Lạc quốc cực kỳ sung sướng,
Chốn bảo trì liên thượng hóa sanh,
Đến nơi bất thối tựu thành, 
Phật ân đền đáp mới đành dạ con.
Nguyện độ hết đến ngôi chánh giác,
Chủng trí đồng chứng đắc hoàn toàn, 
Chúng sanh còn hãy chang chang, 
Nguyện con còn hãy chưa hoàn chưa xong.
 

- Trích "Kinh Di Đà nghĩa và 36 bài sám hay". Sa môn Thích Thiện Tâm - Sa đéc 1961.
 
46. KỆ VÔ THƯỜNG (Cảnh tỉnh vô thường I)
Nhớ lời Phật Tổ dạy rằng :
Đời người chớp nhoáng như lằn điển quang,
Thân người giả hợp rồi tan, 
Lao xao bọt nước mơ màng chiêm bao, 
Nặng mang những nghiệp trần lao, 
Loanh quanh ba cõi lao xao sáu đường.
Đã sanh trong cõi vô thường,
Thì ai thoát khỏi con đường tử sanh, 
Bầu trời lồng lộng cao xanh, 
Xoay mưa trở nắng tan tành gió mây, 
Mênh mông đất nước trời dài, 
Còn đâu bể thẳm luân đầy chiều mai.
Kể từ vô thỉ vị lai,
Đến đời mạt pháp là ngày nay đây, 
Biết bao tan xác rã thây, 
Biết bao những nấm mả loài mồ hoang.
Phật xưa trượng sáu mình vàng,
Mãn viên còn phải Niết bàn báo thân. 
Tiên gia như Lý đại quân,
Đến ngày vô hóa hình thần cũng tan, 
Tam hoàng Ngũ đế Thánh nhân, 
Nào ai giữ được sắc thân đời đời.
Phật, Tiên, Hiền, Thánh, vật, người,
Non sông biến đổi đất trời tiêu tan. 
Than ôi, cuộc thế ngỡ ngàng, 
Não nùng chết khổ, lỡ làng sống vui,
Nếu ba hơi thở tắt rồi, 
Mưa tuôn, cỏ lợp đất vùi nắng phơi.
Than ôi giấc mộng muôn đời !
Biết bao nhiêu khách đọa đày say vui.
Hỡi vong ơi ! Hỡi hồn ơi !
Bao nhiêu nợ thế trả rồi thời thôi,
Rửa lòng cho sạch trần ai, 
Rời câu dục lạc miếng mồi lợi danh,
Tránh xa cái cửa tử sanh, 
Thoát nơi tham ái khỏi thành sân si, 
Bước vào trong cửa từ bi,
Nương theo chơn Phật trở về liên bang.
Khỏi đường sống chết xoay lăn,
Khỏi đường khổ thống khỏi thân tội tình,
Liên bang là nước hóa sanh,
Có ao tám đức có sen năm màu,
Có giường ngọc có mành châu,
Có thành thất bảo có lầu thất trân, 
Sáu thời thiên nhạc rền vang,
Màu sen chói lọi mùi hương nực nồng,
Tốt thay thế giới vàng ròng,
Bảy hàng bảo thọ chín trùng liên hoa.
Đạo sư là Phật Di Đà,
Mình vàng rực rỡ chói lòa hào quang,
Hằng ngày thuyết pháp rền vang, 
Tiếp người niệm Phật dẫn đường thiện duyên. 
Hỡi ôi ! Hồn có linh thiêng, 
Phát tâm niệm Phật mà nguyền vãng sanh, 
Thành lòng Phật một nguyện lành, 
Hoa sen rày đã nên danh tánh rồi. 
Căn lành lợi phúc vun bồi, 
Nương thuyền lục độ mà hồi hương qua,
Mãn duyên sen nở một tòa, 
Rước hồn có Phật Di Đà phóng quang, 
Rước về đến cảnh Lạc bang,
Sống lâu vô lượng dứt đàng tử sanh.
 

- Trích từ "Tuyển tập các bài sám" - Các Ban Hộ Niệm - Bản in lụa, năm 1989 tại TPHCM. - Chưa biết được xuất xứ và trước tác.
 
47. SÁM THẢO LƯ  (Sám hồi tâm I)
Chốn thảo lư an cư dưỡng tánh,
Dốc một lòng nhập thánh siêu phàm,
Sắc tài danh lợi chẳng ham, 
Thị phi phủi sạch, luận đàm mặc ai,
Tuyết ban mai lâu dài chi đó, 
Thân người đời nào có bao lâu,
Nhộn nhàng trong cuộc bể dâu, 
Xuân xanh mới đó bạc đầu rồi đây.
Ba vạn sáu ngàn ngày công khó,
Chia phần đem cho đó một hòm,
Của tiền để lại nhi tôn, 
Bao nhiêu tội lỗi phần hồn lãnh riêng.
Chốn cửu tuyền khác miền dương thế,
Quỉ ngưu đầu chẳng nể chẳng kiêng, 
Tội hành nghiệp cảm liền liền, 
Muôn phần thảm độc ghê phen đoạn trường. 
Rất thảm thương là đường sanh tử,
Dám khuyên người ngó thử lại coi, 
Thân như pháo đã châm ngòi, 
Nổ vang một tiếng rồi coi thế nào. 
Tiếc công lao biết bao xiết kể,
Sự đáo đầu cũng thế mà thôi.
Trăm năm sự nghiệp phủi rồi,
Minh minh biển khổ luân hồi cực thân. 
Lửa hồng trần rần cháy dậy,
Người say mê thấy vậy phải kêu,
Tỉnh tâm xét lại mấy điều, 
Kíp tu đạo đức sau siêu linh hồn.
Sự dại khôn chẳng cần khôn dại,
Trước lỗi lầm sau phải ăn năn,
Biển sâu nước khỏa cũng bằng,
Mây tan gió tịnh, bóng trăng sáng lòa.
Cõi Ta bà có tòa Cực lạc, 
Giòng sông mê, biển giác chẳng xa,
Y theo giáo pháp Thích Ca,
Tự nhiên bổn tánh Di Đà phóng quang.
Đã gặp đàng chưa toan dời bước,
Còn tiếc chi chơn bước lờ đờ,
Khuyên đừng đem dạ tưởng mơ,
Trăm năm cuộc thế như cờ bị vây.
Rút gươm huệ dứt dây tham ái,
Kíp tìm thầy cầu phái qui y. 
Kiên trì ngũ giới tam quy,
Mở lòng từ nhẫn sân si phải chừa.
 

- Trích "Kinh Tam Bảo diễn nghĩa" Tổ đình Thiên Thai - Bà Rịa ấn hành 1967. - Bài do Tổ Huệ Đăng, trước tác vào khoảng năm 1930 tại núi Thiên Thai - Bà Rịa. - Bài nầy còn có các tên gọi khác như : * Sám Hồi tâm - (Tam Bảo Tôn Kinh - Thích Ca Tự). * Sám Hồi tâm Hướng thiện (Kinh Nhựt Tụng - Chùa Đại Giác).
 
48. VĂN KHUYẾN TU (I)
Vóc bào ảnh lắm người yêu tiếc,
Yêu tiếc thân cho thiệt vì thân,
Cuộc vui những ước vô ngần, 
Nào hay vui vẫn là nhân chác sầu !
Kiếp phù thế bóng câu cửa sổ,
Chất huyễn hư giọt lộ lồng hoa, 
Đôi mươi trẻ, chín mươi già,
Số phần yểu thọ khó qua vô thường. 
Dép dưới giường, lên giường vội biệt,
Sống ngày nay, dễ biết ngày mai?
Mạng người hô hấp kinh thay !
Nghĩ cơn vĩnh biệt tuyền đài mà đau.
Xót duyên kiếp vì sao ngắn ngủi?
Chấp thân chi để tủi cho thân,
Da bao những thịt xương gân,
Xác nầy dường thể đống phân sạch gì ?
Tóc, răng, móng khác chi đất bợn, 
Mũi, dãi, đàm nên tởm xiết bao !
Bên ngoài rệp đút muỗi đeo,
Bên trong sán, lãi lẫn vào nhớp chưa ?
Nỗi nóng bức ngày trưa tiết hạ,
Cơn lạnh lùng, đêm giá trời đông,
Xét thân nhơ khổ vô cùng,
Dứt lòng tham luyến, khởi lòng thoát ly.
Trách người thế mê chi lắm nhẽ, 
Sánh phong lưu phô vẻ y quan,
Kẻ khờ cũng học đài trang, 
Để lòng điên đảo theo đàng sắc thanh.
Đầu xương sọ cài trâm thắt lụa,
Đãy da hôi ướp xạ xông hương,
Khéo đòi nhung gấm phô trương,
Chỉ tuồng che lớp vô thường hôi tanh.
Những mảng tưởng ngày xanh muôn tuổi,
Lắm cơ mưu đeo đuổi yên hoa,
Ngờ đâu tai điếc, mắt lòa, 
Diêm Vương sắp rước đến tòa U minh.
Làn tóc bạc đưa tin quỉ sứ,
Gốc răng long điềm chỉ qui âm,
Càng tài, càng sắc, càng dâm, 
Càng thêm đọa lạc càng lầm mà thôi.
Cuộc hành lạc một thời thương tiếc, 
Nẻo luân hồi muôn kiếp đắng cay, 
Đến khi sắp xuống diêm đài, 
Thịt xương đau nhức, chân tay rụng rời. 
Vợ lưu luyến đầy vơi giọt lệ,
Con thảm thương kể lể khóc than,
Dù cho quyến thuộc trăm ngàn,
Có ai thay thế cho chàng được chăng ?
Kẻ sống ở nặng quằn gánh tủi,
Người chết đi dong ruổi phách hồn,
Đường âm mờ tựa đêm hôm, 
Trông ra quạnh quẽ bồn chồn thảm thê.
Nại hà đến lạnh tê gió lốc,
Quỉ môn sang ghê gốc tiếng thương,
Bảy ngày lìa quá cõi dương, 
Âm ty đã trải trăm đường hỏi tra.
Tòa quan xử thét la chẳng vị, 
Ngục tốt hờm tay chủy, tay xoa, 
Đài gương nghiệp cảnh sáng lòa.
Soi tường thiện ác chối qua được nào.
Người nhân đức cho vào cửa phước,
Kẻ hung hoang giải trước hình ty, 
Đọa đày khổ sở xiết chi,
Mới hay nhân quả mấy khi sai lầm.
Rừng đao kiếm bao năm hết tội,
Kiếp sừng lông nhiều nỗi đa mang, 
Trả đền cho dứt nghiệp oan,
Mới mong thoát khỏi con đàng long đong.
Dù ai có to lòng, lớn mật, 
Mặc chàng hay báng Phật khinh Tăng,
Chẳng qua đối trước Diêm quân,
Cúi đầu co gối chịu phần xử tra.
Hồn phách đã xa chơi âm giới,
Thi hài còn ở cõi dương gian, 
Có tiền mua lớp áo quan,
Không tiền vùi chốn núi hoang lạnh lùng.
Chất da thịt sẽ cùng tan rã.
Tấm hình hài lần hóa tanh hôi,
Chỉ trong chầy sớm mà thôi,
Chầy năm bảy tháng sớm thời ít hôm. 
Nét kiều diễm chập chờn xuân mộng, 
Kiếp tài hoa hình bóng bạch vân, 
Khi xưa tài sắc mười phân, 
Mà nay một nắm cô phần lạnh tanh.
Thời oanh liệt hùng anh đâu tá, 
Cuộc ái ân hư giả còn chi,
Phất phơ cành liễu xanh rì, 
Giấy tiền treo đó dường ghi mối sầu.
Bóng chiều rũ xuống mầu cỏ biếc,
Bia mồ trơ một chiếc vắng không, 
Nghĩ thôi rơi lệ chạnh lòng,
Đời người đến thế là xong một đời !
Ví chẳng biết tìm nơi giải thoát,
Nương về ngôi Chánh giác qui y, 
Luân hồi hẳn dứt có khi, 
Bên trời Bát Nhã còn chi lo phiền. 
Lối ma quỉ đừng riêng mưu sống, 
Đất từ bi gieo giống hoa Đàm,
Giữ lòng thiện, dứt lòng tham,
Gái, trai, Tăng, tục đều kham tu hành.
Rõ cảnh mộng chớ quanh đường mộng, 
Biết miền chơn, kíp chóng tu chơn, 
Dần dà tính thiệt so hơn,
Tuổi xuân qua mất để hờn về sau.
Sáu chữ Phật cùng nhau gắng niệm,
Chín phẩm đài sen chiếm ngôi vinh, 
Chớ nên mình phụ lấy mình, 
Trách sao Diêm lão vô tình chẳng dung.
Bỏ điều ác xin làm theo thiện,
Chừa lỗi xưa tu tiến đường sau,
Lại vì quyến thuộc bảo nhau, 
Cùng khuyên già trẻ sớm mau tu trì. 
Khiến mỗi kẻ đồng qui bến giác,
Cho mọi người đều thoát sông mê, 
Dù trong lao khổ dám nề, 
Đài sen đốt mảnh hương thề nguyền xin... 
Nguyền xin dốc tưởng tin lời Thánh.
Dám để cho rỗi rảnh ưu du, 
Kiếp nầy chẳng gắng chuyên tu, 
Còn e kiếp khác công phu lỡ làng.
 

Trích "kinh Nhựt Tụng Sen Vàng" ấn bản - Chùa Ấn Quang 1968. Đối chiếu "Liên Hoàn Sám nguyện" Sa Môn Thích Thiện Tâm - Sa Đéc 1961.
 
49. VĂN KHUYẾN TU (II)
Từ vô thỉ một màu thanh tịnh, 
Vẫn bao la chẳng bến chẳng bờ, 
Không, không, dơ sạch, sạch dơ,
Không tăng, không giảm hư vô không bằng.
Lạc một bước sa chân mang hổ, 
Phải vô minh lắm độ truân chuyên,
Vào ra lục đạo triền miên, 
Làm thân tứ loại thảm phiền biết bao. 
Gây tội ác càng cao càng nặng, 
Núi Thiết vi khó đặng thoát ra,
Ở trong khắp hết Ta bà, 
Mang thân thọ khổ kể mà sao xong. 
Thế có kẻ theo dòng bể khổ, 
Cho rằng vui mà nỡ đắm say, 
Một mai thân đã đến ngày, 
Ôi thôi ! Hồn biết giờ nầy đi đâu ?
Hoặc địa ngục, hoặc đầu thai thú,
A tu la, ngạ quỉ chăng là, 
Ngục hình thọ khổ kêu la, 
Súc sanh đày đọa, Tu la ưu phiền. 
Lũ ngạ quỉ huyên thuyên vô số, 
Chịu đói hoài lửa đỏ tứ tung, 
Xung quanh những cảnh não nùng,
Lâm ly thống thiết khôn cùng xót xa. 
May gặp lúc người ta để bước, 
Chốn trần gian mà lướt chông gai, 
Kẻ mê đắm đuối hướt hài, 
Mãn rồi thế cuộc hình hài ra tro.
Còn kẻ trí tò mò xét nghĩ,
Cái thân nầy có tí nào vui, 
Trải qua một cuộc tới lui,
Lưng còm gối mỏi xa trời gần hang. 
Để mắt ngó gò hoang nghĩa địa, 
Cỏ xanh rì mai mỉa người đời,
Kẻ giàu người khó khác thôi, 
Mãn phần rồi cũng về nơi chốn nầy. 
Kẻ sang trọng với người hèn hạ, 
Ba tấc hơi mồ mả chung đây, 
Người già người trẻ bằng nay, 
Cũng đồng gởi xác ra ngoài gò hoang.
Kìa phụ nữ nọ chàng nam tử, 
Lúc chung qui đều ngự cỏ xanh,
Kẻ đui người điếc lưu manh,
Hồn qui dị lộ gởi mình hang sâu.
Kẻ vương bá công hầu tể tướng;
Lâm trận đồ cũng mượn gò kia,
Ai ôi ! Nghĩ kỹ ai bi !
Cái thân không thiệt, hồn đi nơi nào ?
Sực tỉnh lại mau mau tu tập,
Kíp qui y Phật, Pháp cùng Tăng,
Hôm mai giới luật ân cần, 
Chuyên câu niệm Phật độ thân cho rồi. 
Kìa Cực lạc là nơi an dưỡng, 
Đất lưu ly vô lượng khiết tinh, 
Có ao thất bảo quang minh, 
Có sen chín phẩm lớn kình bánh xe.
Lại thất bảo ngỏa nguê đẹp đẽ,
Nước bát công sạch sẽ tinh vi, 
Bảy hàng cây báu lưu ly, 
Lan can bảy lớp ma ni sáng ngời.
Chim nói pháp hôm mai êm dịu,
Hoa trên không nhiêu nhiểu khắp cùng,
Khắp trong một sát độ trung, 
Dị hương thanh nhạc vui mừng thảnh thơi. 
Nơi bảo tọa một tòa vương pháp,
A Di Đà nói pháp thuyết kinh, 
Trang nghiêm vô lượng quang minh, 
Hào quang sáng chói ba thành mười phương.
Đại Thế Chí pháp vương chi tử, 
Tọa liên đài một chữ tiếp sanh, 
Tay cầm sen trắng thanh thanh,
Bước đi thế giới rung rinh ba ngàn.
Quan Thế Âm nghiêm trang tự tại, 
Chấp tịnh bình tay sái cam lồ, 
Hóa thân khắp cõi hư vô,
Độ loài tam giới tam đồ vãng sanh.
Kẻ học Phật hiểu rành chơn lý, 
Phật tức tâm lý sự tỏ tường,
Tâm là tịnh, khó nghĩ lường,
Di Đà Cực lạc tìm phương độ rồi.
Khá suy xét ngộ rồi sẽ thấy, 
Rán công phu chớ cậy tài cao,
Phải hành lục độ dồi trau,
Nhứt tâm trì niệm rồi sau đắc thành.
Tín, hạnh, nguyện thi hành hằng bữa,
Gắng ghi luôn trau thửa tấc lòng, 
Bồ đề nảy nhánh đơm bông. 
Lên thuyền Bát nhã hội đồng pháp thân. 
Khá ghi lời thuyết chánh chân !
 
 

- Trích đối chiếu bổ sung từ ba bản :  * Kinh Nhựt Tụng Sen Vàng - Chùa Ấn Quang 1968. * Tam Bảo Tôn Kinh - Thích Ca Tự Sàigon 1967. * Liên Hoàn Sám nguyện - Sa Đéc 1961.
 
50. SÁM HỒNG TRẦN (Cảnh tỉnh vô thường II)
Cõi hồng trần gởi thân trăm tuổi, 
Kiếp phù sanh thay đổi mấy lần,
Có thân nên khổ vì thân, 
Bởi xưa chơn tánh niệm lần say mê. 
Nhơn vô minh vọng tình nhiễm trước, 
Thọ, tưởng, hành, ý thức nghiệp duyên, 
Luân hồi sanh tử lộn quanh,
Ra vào ba cõi xuống lên sáu đường. 
Đời dĩ vãng Tam hoàng, Ngũ đế, 
Khó toan phương cõi thế thọ trường, 
Những là diệu dược Thần Nông, 
Dễ đâu cứu hết mạng vong số người. 
Thuốc linh đơn tài y Biển Thước,
Cũng nan điều hết được bịnh nhơn.
Hữu hình, hữu hoại là thân, 
Có đâu sống mãi ngàn năm trên đời.
Trường danh lợi lăng xăng lui tới, 
Án công hầu sớm tối đua chen, 
Sang giàu nghèo khổ lộn xen, 
Chung qui rồi cũng một phen tan tành. 
Oai lẫy lừng vua Tần Hoàng Thủy,
Tiếng anh hùng cái thế Hạng Vương, 
Quyết lòng thâu đoạt giang sơn, 
Dè đâu ý định sao hơn mạng trời.
Chẳng lâu đời mạng Tần ngắn ngủi,
Sông Ô giang Hạng Võ bỏ mình, 
Hớn trào Hàn Tín công nghìn, 
Tề Vương đại ấn dễ mang đặng nào ?
Họ Thạch giàu của bao xiết kể, 
Mà bây giờ còn để lại đâu ?
Tuổi Nhan Hồi băm hai yểu số,
Sống tám trăm Bành Tổ mạng trường,
Xanh mày với tóc bạc sương,
Sống lâu thác yểu, một đường khác chi.
Mùi tục lụy đắng cay mấy nỗi,
Bả đỉnh chung nhiều nỗi nhọc lòng, 
So tài đấu trí dại khôn, 
Công danh, phú quí mộng hồn hoàn lương. 
Cảnh vô thường tang thương biến đổi. 
Người lẽ đâu sớm tối an nhàn,
Sanh giả không, tử giả không,
Mấy ai trăm tuổi uổng công lo đời.
Còn chút hơi ai ơi nghĩ lại, 
Muôn việc đời cả thảy đừng mong,
Vắng đi ba tấc hơi lòng, 
Bao nhiêu sự nghiệp còn trông chút gì ?
Dẫu của tiền vạn thiên chất chứa,
Bực vương hầu khanh tướng vinh huê,
Ơn thâm nghĩa trọng tận tình, 
Đem ra chuộc thế mạng mình được chăng ?
Có chi bằng tầm phương tế độ,
Niệm Di Đà giác ngộ thiện tâm, 
Đạo là vô thượng thậm thâm, 
Nếu không sớm gặp kiếm tầm dễ chi ?
Xét thân nầy một khi gặp gỡ,
Để mất rồi muôn thuở khó toan, 
Kiếp người sanh giữa trần gian,
Nhờ nơi chưởng đặng thiện căn lâu đời.
Vậy mấy lời hôm nay tỉnh giấc, 
Nguyện vong hồn khoái lạc siêu sanh,
Bao nhiêu những việc tiền trình, 
Bây giờ thôi cũng phải đành hoàn không.
Một khoảnh đồng bặt tăm chôn xác, 
Ôi đành cho đất cát lấp vùi, 
Biệt ly là cảnh ngậm ngùi,
Bi tâm thán biệt nấm mồ ngàn thu.
Bóng trăng lu, nhìn đầu ác xế, 
Tháng ngày qua quạnh quẽ mộ phần,
Gió mưa, nắng tuyết bao lần,
Cổ kim lai vãng tử sanh một đàng. 
Cõi dinh hoàn, trần gian chung cảnh, 
Kiếp luân hồi không rảnh thoát ly,
Mong nhờ pháp lực hộ trì, 
Xả mê tùng giác tiêu diêu lạc thành.
Nguyện vãng sanh về miền Cực lạc,
Dứt hết liền ác nghiệp trần lao,
Liên hoa chín phẩm đặng vào,
Trường xuân tự tại tiêu dao hưởng nhàn.
 

- Trích "Kinh Di Đà Nghĩa và 36 bài sám hay" - Sa môn Thich Thiện Tâm sưu tầm - Sa đéc 1961. Và Kinh Nhựt tụng Sen Vàng, chùa Ấn Quang 1968.
 
51. BÀI TỐNG TÁNG  (Cảnh tỉnh vô thường III)
Cuộc hồng trần xoay vần quá ngán,
Kiếp phù sanh tụ tán mấy lăm hồi, 
Người đời có biết chăng ôi !
Thân người tuy có, có rồi hoàn không. 
Chiêm bao khéo khuấy lạ lùng, 
Mơ màng trong một giấc nồng mà chi, 
Làm cho buồn bã thế ni, 
Hôm qua còn đó bữa nay đâu rồi.
Khi nào đứng đứng ngồi ngồi,
Bây giờ thiêm thiếp như chồi cây khô, 
Khi nào du lịch giang hồ, 
Bây giờ nhắm mắt mà vô quan tài.
Khi nào lược giắt trâm cài,
Bây giờ gởi xác ra ngoài gò hoang,
Khi nào trau ngọc chuốt vàng, 
Bây giờ một nắm xương tàn lạnh tanh, 
Khi nào mắt đẹp mày thanh, 
Bây giờ thấy dạng thấy hình là đâu. 
Khi nào lên các xuống lầu, 
Bây giờ một nắm cỏ sầu xanh xanh, 
Khi nào liệt liệt oanh oanh, 
Bây giờ một trận tan tành gió mưa, 
Khi nào ngựa lọc xe lừa, 
Bây giờ mây rước trăng đưa mơ màng,
Khi nào ra trướng vào màn,
Bây giờ nhà cửa xóm làng cách xa,
Khi nào mẹ mẹ cha cha, 
Bây giờ bóng núi khuất xa muôn trùng, 
Khi nào vợ vợ chồng chồng, 
Bây giờ trăng khuyết còn mong chi tròn, 
Khi nào cháu cháu con con, 
Bây giờ hai ngã nước non xa vời, 
Khi nào cốt nhục vẹn mười, 
Bây giờ lá héo nhành tươi vui gì,
Khi nào bạn hữu sum vầy, 
Bây giờ chén rượu cuộc kỳ vắng thiu.
Cái thân như tấc bóng chiều,
Như chùm bọt nước phập phều ngoài khơi,
Xưa ông Bành Tổ sống đời, 
Tám trăm tuổi thọ nay thời còn đâu,
Sang mà đến bực công hầu, 
Giàu mà đến bực mấy lâu Thạch Sùng, 
Nghèo mà đói khát lạnh lùng, 
Khổ mà tóc cháy da phồng trần ai,
Phù du sớm tối một mai, 
Giàu sang cũng thác xạt xài cũng vong. 
Thông minh tài trí anh hùng,
Ngu si dại dột cũng chung một gò,
Biển trần nhiều nỗi gay go, 
Mau mau nhẹ gót qua đò sông mê, 
Sự đời nên chán nên chê, 
Tầm nơi giải thoát mà về mới khôn.
Vong hồn ơi hỡi vong hồn !
Cuộc đời nay biển mai cồn tỉnh chưa ?
Tỉnh rồi một giấc say sưa, 
Sẽ xin niệm Phật mà đưa hồn về. 
Hồn về Cực lạc nước kia, 
Cho xa hang quỉ mà lìa kiếp ma. 
Nhờ ơn đức Phật Di Đà, 
Phóng ra một ngọn chói lòa hào quang,
Trong khi tiếp dẫn rõ ràng, 
Dắt hồn ra khỏi sáu đàng nghiệp nhân,
Quan Âm Bồ Tát vui mừng,
Tay cầm nhành liễu tay bưng kim đài, 
Với cùng Thế Chí các Ngài, 
Cũng đều khuyến thỉnh bên ngai sen vàng.
Có bảo cái có tràng phan,
Có mùi hương lạ có đàng ngọc xây, 
Có trời các cõi truy tùy, 
Có đờn, có trống, rước đi một đường, 
Rước về đến cảnh Tây phương,
Có ao thất bảo có hương ngũ phần, 
Lưu ly có đất sáng ngần, 
Ma ni có nước trong tần chảy quanh, 
Thất trân có bảy lớp thành,
Bảy hàng cây báu, bảy vành lưới châu, 
Có ngân các, có kim lầu, 
Có chim nói pháp nhiệm mầu dễ nghe. 
Nghe rồi tỏ đạo Bồ đề,
Bao nhiêu nghiệp chướng hồn mê dứt liền, 
Đã sanh về chín phẩm sen, 
Mấy tai cũng sẩy mấy duyên cũng tròn.
Phật như thể mẹ tìm con, 
Con mà gặp mẹ lại còn lo chi, 
Lầu vàng đài báu thiếu gì, 
Ăn thì cơm ngọc, mặc thì áo châu, 
Không ơn, không oán, không sầu, 
Không già, không chết có đâu luân hồi.
Tánh xưa nay đã tỏ rồi, 
Gương xưa nay đã lau chùi trần ô. 
Tu hành phải đợi kiếp mô, 
Nguồn tình biển ái đã khô bao giờ,
Lựa là phải ngộ thiền cơ,
Mà đèn trí huệ dễ lờ đi đâu, 
Mấy lời hộ niệm trước sau, 
Nguyện cho thành Phật mau mau nữa mà, 
Phân thân ra khỏi Ta bà,
Từ bi tiếp độ những là chúng sanh.
 
 

- Trích từ "Liên Hoàn Sám Nguyện" - Sa môn Thích Thiện Tâm sưu tầm - Sa đéc 1961. - Đối chiếu lại và sửa chữa từ "Tam Bảo Tôn Kinh" Thích Ca Tự Sàigòn 1967.
 
52. ĐƯỜNG VỀ TỊNH ĐỘ  (Khuyến tu III)
Dật dờ trong cảnh phong ba, 
Canh già vừa trổi, tỉnh ra giấc nồng, 
Chợt nhìn Nam, Bắc, Tây, Đông, 
Ngẩn ngơ cuộc thế, đau lòng thiết tha,
Nguyện cùng Phật tử chúng ta,
Kết tình liên lạc thuận hòa với nhau, 
Muốn cho đoàn thể thanh cao, 
Một lòng thù tạc, trước sau trọn niềm. 
Thôi đừng đem dạ kỵ hiềm, 
Chớ phân giai cấp, để tìm đường chơn, 
Cũng đừng tính thiệt so hơn, 
Giúp nhau tận lực trong cơn tai nàn.
Như là tuần tự, khổ tang, 
Cùng là bịnh hoạn, thuốc thang nuôi giùm.
Đó là như mở gông cùm, 
Trên đời chưa có cái giùm nào hơn. 
Tùy theo phương tiện làm ơn, 
Chẳng nên thái quá, e lờn mối tâm, 
Chẳng cần tiền chục bạc trăm, 
Chị em dư dả đậu năm ba tiền, 
Nghèo thì công cán thay phiên, 
Giúp nhau giữa lúc cảnh duyên âu sầu. 
Tu hành lấy đó làm đầu, 
Muốn lên đường cả, bước đầu từ đây, 
Giàu nghèo đừng vị đừng tây, 
Tập lòng bình đẳng sớm chầy phải nên, 
Biết nhau đạo lý đừng quên, 
Con đường chánh đại dẫn lên một lần, 
Công tâm một mực phải cần, 
Đừng riêng tâm niệm kẻ gần, người xa. 
Chị em tỷ ở trong nhà, 
Nhìn nhau như một mẹ cha đó mà,
Thương nhau như tấm ruột rà, 
Buông lòng chấp nhứt dung tha lỗi lầm.
Đừng xen cái nét tư tâm, 
Tránh đường tam độc, để tầm cửa không. 
Quét lần lòng sạch bụi hồng,
Sát con ma nghiệp, nuôi lòng từ bi,
Quày đầu tỉnh giấc vô tri, 
Mới hay thế sự cái gì cũng sai, 
Lẽ thì nuôi sống qua ngày, 
Của tiền thân thể đoái hòa làm chi?
Biết rằng : "Sanh ký tử qui",
Cái thân hưởng tạm thác thì phủi trơn, 
Bình sanh luống tính thiệt hơn,
Mãn danh rồi lợi, quên cơn đọa đày,
Tội căn có trả bởi vay, 
Lòng thương tự nghĩ, để xoay vần hoài.
Từ đời vô thỉ đến nay,
Tâm hồn mê lạc, đắm say lờ đờ, 
Như con chích mẹ bơ vơ, 
Lạc căn mất bổn thẩn thơ cõi trần,
Cũng vì mê chấp căn thân, 
Quên nơi bổn tánh lần lần tới nay, 
Không hay đây cảnh đọa đày,
Chim lồng cá chậu có ai biết là, 
Tưởng cho thong thả Ta bà, 
Nay hay bị khép dưới đà hỏa khanh, 
Luống theo ả lợi chàng danh, 
Làm cho chìm nổi lẫn quanh sáu đường.
Than ôi ! nhiều kiếp khôn lường,
Thay hình đổi xác trong trường tử sanh.
Khiến nên vùi lấp căn lành, 
Hết chìm rồi nổi đã đành lội bơi, 
Trông nhìn biển khổ vơi vơi, 
Ngán ôi cái bước của đời trần hiêu.
Chừng nào tội nghiệp được tiêu, 
Thấy trong cảnh vật lắm điều bi ai, 
Có chi gái sắc trai tài, 
Đến ngày rồi cũng ra ngoài gò hoang,
Anh hùng tài trí khôn ngoan, 
Vô thường đến dắt khó gàn khó ngăn, 
Trâm cài lượt giắt lăng xăng, 
Hết ba hơi thở cũng phăng xuống mồ. 
Áo quần thân thể điểm tô, 
Khuất ba tấc đất thấy mồ cỏ xanh, 
Lời khôn tiếng khéo dẫu lanh, 
Dứt rồi hơi nóng chẳng thành là ai. 
Huyễn thân giả dối không sai, 
Tang điền thương hải, mấy ai xét cùng,
Từ đây nghe trống đại hùng,
Trời Nam inh ỏi tiếng thùng dội vang. 
Chúng ta tỉnh giấc mơ màng,
Thấy đường Tịnh độ rõ ràng bổn nguyên,
Cùng nhau muốn trổ bông duyên, 
Mau gieo trái phước cho liền hôm nay, 
Vun bồi căn tánh tháng ngày,
Dưỡng lòng thanh tịnh, dẹp loài vọng ma. 
Dốc lòng niệm Phật Di Đà, 
Pháp môn Tịnh độ Thích Ca chỉ rành,
Các loài muốn được vãng sanh, 
A Di Đà Phật niệm rành đừng xao, 
Người đời vô hạn thấp cao,
Bực nào niệm Phật trước sau cũng thành.
Miễn là cải dữ theo lành, 
Lấp ngơ miệng thế, thả quanh tiếng phàm. 
Hỉ, nộ, ái, ố đừng cam, 
Chánh, tà phải xét, thánh, phàm phân minh, 
Dư công lễ Phật tụng kinh, 
Lập bàn thờ Phật, kỉnh tin mỗi nhà,
Bằng không cứ niệm Di Đà, 
Nằm, ngồi, đi, đứng, miễn là đừng phai. 
Bao nhiêu tội nghiệp từ ngày, 
Hội này cứ niệm Phật hoài phải tiêu;
Lập công bồi đức ít nhiều,
Tùy theo phương tiện phải chìu sức nhau, 
Lòng thành ý tịnh một màu, 
A DI ĐÀ PHẬT làu làu trong tâm,
Pháp môn Tịnh độ thậm thâm, 
Tín tâm phải liệu, đừng lầm không nên. 
Liên đài cửu phẩm muốn lên, 
Bao nhiêu Phật dạy lòng bền thì xong.
Đừng nghe nhiều phái nhiều tông,
Rày đây mai đó, khó mong đến bờ.
Nếu là còn bước sơ cơ, 
Cứ nương thiện hữu, trước lờ sau minh, 
Một đường chánh niệm thinh thinh, 
Con ma nghiệp chướng khó rình bên ta.
Dày công niệm Phật Di Đà,
Đến ngày rồi sẽ liên hoa hóa hình,
Vậy thì lớn nhỏ bạn mình, 
Đem thân cầu đạo, mặc tình thị phi.
Cùng nhau thủ phận tam qui, 
Thế gian mặc kẻ chẳng bì nữa chi,
Để mình nương bóng A Di, 
Xuống thuyền đại nguyện kịp thì bạn ta.
Tu hành giữ đạo tại gia, 
Uống ăn đạm bạc, miễn qua tháng ngày,
Che thân quần áo bề ngoài, 
Miễn cho lành lẽ, sơ xài cũng xong. 
Để mà cầu đạo ở trong,
Ngoài thân ngoài cảnh đèo bồng lắm chi,
Gát ngoài hai chữ thị phi,
Nhuộm tâm đạo đức cho y một màu, 
Xét trước rồi lại xem sau, 
Lỡ nhau lầm lạc hồi nào thì thôi,
Biết mình cải ác đã rồi.
Hễ là tùng thiện cứ bồi đạo tâm,
Đạo tâm muốn giữ cho nhằm, 
Giàu nghèo tự lẽ, đừng tham leo chuyền, 
Yên tâm thủ phận tùy duyên, 
Nhơn nào quả nấy, tiền khiên tự mình, 
Phải cần tham học cho minh, 
Đừng vì nghèo khó bất bình không nên. 
Còn như giàu có bực trên,
Cũng đừng vì đó mà quên đạo hằng. 
Một lòng như sợi chỉ giăng, ngời, 
Thương nhau dìu dắt đừng rời,
Theo ra cho khỏi cửa đời thế gian, 
Sau rồi đến cảnh Lạc bang,
Chị em lớn nhỏ bạn vàng đủ nhau.
Nam mô Liên Trì Hải Hội Phật Bồ Tát.
 

- Trích từ "Liên Hoàn Sám Nguyện" - Sa môn Thích Thiện Tâm sưu tầm - Sa đéc 1961.
 
53. SÁM TU LÀ CỘI PHÚC  (Khuyến tu IV)
Chữ rằng công đức vô lường, 
Thập phương chư Phật thường thường độ sanh,
Ai ơi gắng chí tu hành,
Để sau đến bực vô sanh mà nhờ, 
Người đời sớm biết tri cơ, 
Gương lu vì bụi, trăng lờ vì mây,
Chở che nhờ đức cao dày, 
Dẫu tu cho mấy chẳng tày tu tâm.
Đường mê xin chớ bước lầm, 
Não phiền cũng bởi thân tâm của mình
Chớ nên hại vật sát sanh,
Tu nhơn tích đức mới thành phẩm cao,
Cuộc đời như giấc chiêm bao,
Công danh phú quý khác nào lửa diêm,
Phật Tiên xưa cũng người phàm, 
Tỉnh thời làm Phật, mê làm chúng sanh, 
Nhớ xưa Vương Khải, Thạch Sùng, 
Dẫu cho ngàn tứ muôn chung một thời, 
Của đời trả lại cho đời,
Giàu sang mà khỏi luân hồi đặng chăng ?
Đổi thay máy tạo không ngừng,
Bức tranh vân cẩu mấy từng xa xa, 
Khuyên đừng trách lẫn trời già, 
Đáo đầu thiện ác chánh tà khác nhau,
Quả nhơn chẳng trước thời sau,
Gẫm cơn báo ứng chậm mau mấy hồi,
Người đời nghĩ đó mà coi,
Giờ không toan liệu sau rồi làm sao ?
Khuyên đừng nại chút công lao, 
Nhắm chừng bờ giác tầm vào tận nơi,
Tâm minh vốn đã sẵn rồi,
Ở trong mình có, há ngoài đâu xa.
Trừ nghiệp chướng giải oan gia, 
Trì trai niệm Phật ấy là công phu,
Tháng ngày thấm thoát phù du, 
Bóng qua cửa sổ dễ hầu trở lui.
Thiện căn trước đã tài bồi, 
Đèn khêu mới sáng, ngọc dồi mới xinh, 
Tránh vòng lục dục thất tình, 
Ấy là khỏi lưới vô minh vướng nhầm.
Rõ ràng phước tội tại tâm, 
Mình là mình chịu không lầm mảy may,
Máu tham tràn khắp xưa nay, 
Lợi danh biết mấy cho đầy lòng ai, 
Chớ ham chen lấn đua bơi, 
Cũng đừng ỷ sức cậy tài là xong, 
Dương trần biết mến trăng trong,
Người sa vào chốn bụi hồng làm chi ?
Hãy theo chánh lý mà suy, 
Xét cho thấu đáo vô vi đạo thường.
Tu hành sớm tối lo lường,
Đừng ham những cảnh vô thường thế gian, 
Cho hay hoa nở cũng tàn, 
Pháo mà kêu lớn càng tan xác nhiều.
Chi bằng tìm chốn tiêu diêu, 
Nương theo cõi Phật khỏi điều thị phi,
Gìn lòng hai chữ từ bi,
Sớm trừ vọng niệm hiểu kỳ tử sanh,
A Di Đà Phật chứng minh, 
Chí tâm quy mạng phù sanh chẳng cầu.
Căn lành phước huệ trồng sâu,
Rõ thông mùi đạo nhiệm mầu lắm thay.
Hoa sen thượng phẩm cao dầy,
Tây phương Tịnh độ định ngày vãng sanh,
Ai ơi gắng chí tu hành,
Cho mau kết quả quốc thành thẳng qua, 
Chúng con phát nguyện thiết tha, 
Cầu về Cực lạc Di Đà phóng quang.
 

- Trích đối chiếu bổ sung, sửa chữa từ ba bản : - 39 bài sám nghĩa. - Tam Bảo Tôn Kinh. - Kinh Nhựt Tụng chùa Đại Giác (sđd). - Có thay đổi hẳn một câu so với bản in trước của Tuyển tập, căn cứ theo bản của Tam Bảo Tôn Kinh : "Gìn lòng hai chữ Từ Bi". Khác với trước là : "Dồn lòng niệm Phật A Di". Bởi vì câu sau tiếp theo đã có ý như trên : "A Di Đà Phật chứng minh". Đây là sửa lại theo một bản đã có, không phải soạn lại (người soạn.).
 
54. PHẬT TỬ TẠI GIA (Khuyến tu V)
Quý thay Phật tử tại gia, 
Nam xưng Bà tắc, nữ là Bà di, 
Dốc lòng tin quy y Tam Bảo, 
Chí thành theo chính đạo Từ bi, 
Tham lam, hờn giận, ngu si, 
Ba thứ độc ấy tránh đi chớ gần. 
Giữ trọn vẹn hiếu nhân sau trước,
Để báo đền công đức tứ ân, 
Ơn cha mẹ muôn phần trọng đại, 
Ơn nước nhà rộng rãi bao la, 
Ơn quần chúng giúp đỡ ta, 
Ơn thầy ơn bạn đều là cao sâu.
Trong gia đình cùng nhau thực hiện,
Cha mẹ hiền con cháu hiếu trung,
Anh em thân thích vợ chồng,
Như nước với sữa vui chung thuận hòa,
Từ ý nghĩ cùng là lời nói,
Việc làm nên xét lại hai ba,
Những điều độc ác phải xa, 
Chuyên tu phúc tuệ để mà độ thân.
Bao điều hay ân cần khuyên nhủ,
Cho mọi người theo đó cùng tu, 
Mong sao khắp cả hoàn cầu,
Không còn người ác chẳng đâu lo phiền. 
Khỏi nghe tiếng kêu rên thảm khốc,
Hết hẳn người than khóc đau thương,
Tội kia phúc nọ đôi đường,
Dở hay tốt xấu như gương soi mình. 
Hơi trông thấy tâm mình tự rõ,
Đau khổ thì nhăn nhó hiện ra, 
Khi vui vẻ lúc an hòa, 
Mặt như hoa nở trăng đà tròn xoe.
Nhân đã tạo quả kia tất kết,
Tự tâm mình suy xét hiểu ngay,
Dở hay, hay dở, dở hay, 
Dở hay bao cũng tâm này mà ra, 
Muốn khỏi tội phải xa lánh ác, 
Cầu phúc cần bồi đắp thiện căn, 
Muốn ăn quả phải trồng nhân, 
Nhân nào quả ấy chẳng phần nào sai.
Người sinh ở đời này hưởng thụ, 
Phúc tội mình gây đủ từ xưa, 
Mỗi người mỗi cảnh khác xa, 
Nhìn xem nét mặt đúng là không sai.
Suy gẫm khắp đông tây kim cổ,
Không người nào giống cả như nhau,
Chính vì ngay lúc ban đầu, 
Không ai nghĩ đúng như nhau một chiều.
Gây thiện ác mọi điều không giống, 
Hưởng thụ nay thành cũng khác nhau, 
Người không suy trước nghĩ sau, 
Qua trăm năm dễ tìm đâu ra mình, 
Bao của cải cũng đành vất bỏ, 
Bao người thân còn có ai nhìn, 
Riêng mình theo với nghiệp duyên, 
Vào sinh ra tử trong miền trầm luân.
Nay may đã được gần Phật pháp,
Quy y rồi cận phát tâm tu, 
Tháng ngày cố gắng công phu, 
Mở mang phúc tuệ sao cho vẹn toàn, 
Suốt đời đời cần chuyên ra sức, 
Dốc lòng thành tích đức tu nhân, 
Làm ăn chân chính kiệm cần.
 

- Trích trong "Gia đình Giáo dục" Sa môn Trí Hải soạn - Chùa Quán Sứ Hà Nội ấn hành 1956. - Bài do Tổ Trí Hải trước tác. Được dùng làm Già kể hạnh ở các khi đi hội lễ hằng năm.
 
55. BÁT NHÃ TÂM KINH (I)
Tâm trí huệ thinh thinh rộng lớn, 
Sáng trong ngần chẳng bợn mảy trần
Làu làu một tánh thiên chân, 
Bao trùm muôn loại chẳng phân Thánh phàm.
Vận tâm ấy lặng trong sáng suốt, 
Cõi bờ kia một bước đến nơi,
Trải lòng tròn đủ xưa nay, 
Công thành quả chứng tỏ bày đích đang. 
Hàng Bồ Tát danh Quan Tự Tại,
Khi tham thiền vô ngại đến trong, 
Thẩm vào trí tuệ mở thông, 
Soi thấy năm uẩn đều không có gì, 
Độ tất cả không chi khổ ách,
Trong thức tâm hiện cảnh sắc ra, 
Sắc, Không chung ở một nhà,
Không chẳng khác Sắc, Sắc nào khác không, 
Ấy Sắc tướng cũng đồng Không tướng,
Không tướng y như tượng Sắc kia, 
Thọ, Tưởng, Hành, Thức, phân chia, 
Cũng lại như vậy, tổng về chân không.
Tòa sắc tướng nhơn ông tạm đó, 
Các pháp kia tướng nọ luống trơn,
Chẳng sanh chẳng dứt thường chơn, 
Chẳng cấu, chẳng tịnh, chẳng sờn, chẳng thêm,
Cớ ấy nên cõi trên không giới, 
Thể làu làu vô ngại thường chân,
Vốn không ngũ uẩn ấm thân, 
Sáu căn chẳng có sáu trần cũng không.
Thấy rỗng không mà không nhãn giới,
Biết hoàn toàn thức giới cũng không,
Tánh không sáng suốt đại đồng, 
Vô minh chẳng có mựa hòng hết chi, 
Vẫn không có thân gì già chết, 
Huống chi là hết chết già sao ?
Tứ đế cũng chẳng có nào, 
Không chi là trí có nào đắc chi.
Do vô sở đắc ly tất cả, 
Nhơn pháp kia đều xả nhị không, 
Vận lòng trí huệ linh thông, 
Bờ kia mau đến tâm không ngại gì.
Không quái ngại có chi khủng bố ?
Tức xa lìa mộng tưởng đảo điên,
Tâm không rốt ráo chư duyên, 
Niết bàn quả chứng chơn nguyên hoàn toàn.
Tam thế Phật, y đàng Bát nhã,
Đáo Bồ đề chứng quả chánh nhơn,
Cho hay Bát nhã là hơn,
Pháp môn tối thắng cõi chơn mau về. 
Thiệt thần chú linh tri đại lực, 
Thiệt thần chú đúng bực quang minh, 
Ấy chú tối thượng oai linh,
Ấy chú vô đẳng thinh thinh oai thần.
Trừ tất cả nguyên nhân các khổ, 
Thức tỉnh lòng giác ngộ vô sư, 
Thiên nhiên chơn thiệt bất hư,
Án lam Thần chú Chơn như thuyết rằng:
"Yết đế, yết đế, ba la yết đế, ba la tăng yết đế, Bồ đề tát bà ha". (3 lần)
 

- Bản dịch của Tổ Huệ Đăng - Chùa Thiên Thai Bà Rịa - Trích từ Kinh Tam Bảo Diễn nghĩa - Tổ đình Thiên Thai ấn hành 1967.

0 Kommentare:

New Comments

Chia Sẻ

Twitter Delicious Facebook Digg Stumbleupon Favorites