Pages

Tuyển Tập Các Bài Sám 2


55 Bài Sám Văn Phổ Thông
Tái Bản Lần Thứ 3, (Có Sửa Chữa Bổ Sung)
Đồng Bổn biên tập - Thành Hội Phật Giáo TP. Hồ Chí Minh  - Phật Lịch 2541



Tập II

Phần Thứ Hai
Các Bài Sám Văn Tán Thán Phật Thánh Hiền Tăng

14. SÁM TỤNG PHẬT XUẤT GIA (I) (Mùng tám tháng hai)
Kính lạy Bồ Tát Tất Đạt Đa, 
Tánh đức từ bi hằng biểu lộ, 
Trải bao cuộc du hành mục đỗ, ( )
Xót sinh linh kiếp số trầm luân,
Cảnh sinh, già, đau, chết, gian truân, 
Luống chịu khổ không ngừng gây khổ.
Mê chấp tánh tham, si, tật đố,
Mãi cùng nhau vầy ổ oan gia,
Nợ tuần hoàn vay trả không xa, 
Trong sáu đạo trùng phùng quanh quẩn.
Bồ Tát dũ Bà tâm lân mẫn ( ), 
Quyết hy sinh độ tận hữu tình,
Đoạn ái ân phú quí riêng mình, 
Chọn điệu sống quang minh vô trụ ( ), 
Tìm hạnh phúc lâu dài đầy đủ, 
Cùng quần sinh hưởng thú yên lành, 
Gặp tuần trăng giữa lúc đêm thanh, 
Rời cung cấm băng thành tìm đạo. 
Hiếu tình đặt ra ngoài quyền sáo ( ), 
Mở lòng thương đại tạo bao la ( ), 
Chiếc thân vui bạn với yên hà ( ), 
Theo tiếng gọi lòng từ giục nhắc.
Lên yên ngựa cùng tôi Xa Nặc, 
Lướt bụi hồng hướng nẻo rừng xanh, 
Non sông gấm vóc thiên thành, 
Cỏ hoa hớn hở bao quanh đón chào.
A Nô Ma sóng vỗ rạt rào, 
Hy Mã Lạp tuyết ngời lóng lánh, 
Nơi đánh dấu bước đường lên Thánh, 
Dừng vó câu thả gánh tang bồng ( ), 
Gởi lời về tâu trước bệ rồng,
Cầu vương phụ giải lòng trông đợi.
Rừng khổ hạnh lần dò bước tới, 
Xét hành nhơn lầm lỗi nhiều phương, 
Bởi người chưa rõ lý chơn thường, 
Hạnh kỳ đặc hồi đầu vô ích ( ). 
Tạm dời gót trên đường điểu tích ( ), 
Tìm tận nơi tịch mịch thiên nhiên, 
Trọn sáu năm núi Tuyết tham thiền, 
Kham chịu cảnh màn trời chiếu đất ;
Đầy ba đức cõi lòng chơn tịnh( ),
Không ngại ngùng thú dữ ma thiêng. 
Công đức vừa đầy đủ nhơn duyên, 
Trên Pháp tọa Bồ đề chứng quả.
Hóa độ khắp đại thiên thiên hạ, 
Muôn loài đều một dạ ghi ơn.
Chúng con nay phát nguyện tu nhơn, 
Nhờ tắm gội từ vân pháp vũ.
Trước bảo điện trì kinh niệm chú, 
Kỷ niệm ngày lịch sử thiêng liêng, 
Cúi xin Phật, Pháp, Thánh, Hiền,
Gia hộ chóng tiêu trừ nghiêp chướng. 
Ngưỡng mộ đấng Pháp vương vô thượng,
Nhứt tâm đồng đảnh lễ quy y.
Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật. (30 lần)
Nam mô Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát.  (3 lần)
Nam mô Đại Hạnh Phổ Hiền Bồ Tát.(3 lần)
Nam Mô Đạo Tràng Hội Thượng Phật Bồ Tát. (3 lần)

- Trích bản in trong “Nghi thức tụng niệm” chùa Xá Lợi ấn hành 1993. - Có một dị bản khác và hơn 3 câu trong “Nghi thức tụng niệm” chùa Đại Giác ấn hành 1974.
 
15. SÁM TỤNG PHẬT KHÁNH ĐẢN (I) (Rằm tháng tư)
Đệ tử hôm nay,
Gặp ngày Khánh đản, 
Một dạ vui mừng, 
Cúi đầu đảnh lễ
Thập phương Tam thế, 
Điều Ngự Như Lai,
Cùng Thánh, Hiền, Tăng.
Chúng con cùng pháp giới chúng sanh
Bởi thiếu nhơn lành,
Thảy đều sa đọa;
Tham sân chấp ngã,
Quên hẳn đường về,
Tình ái si mê,
Tù trong lục đạo, 
Trăm dây phiền não,
Nghiệp báo không cùng, 
Nay nhờ Phật Tổ Năng Nhân, 
Dủ lòng lân mẫn, 
Không nỡ sinh linh thiếu phước, 
Nặng kiếp luân hồi, 
Đêm dài tăm tối, 
Đuốc tuệ rạng soi. 
Nguyện cứu muôn loài,
Pháp dùng phương tiện.
Ta bà thị hiện.
Thích chủng thọ sinh.
Thánh Ma Gia mộng ứng điềm lành,
Vua Tịnh Phạn phước sinh con thảo. 
Ba mươi hai tướng tốt, 
Vừa mười chín tuổi xuân, 
Lòng từ ái cực thuần, 
Chí xuất trần quá mạnh.
Ngai vàng quyết tránh,
Tìm lối xuất gia, 
Sáu năm khổ hạnh rừng già, 
Bảy thất nghiêm tinh thiền tọa.
Chứng thành đạo quả, 
Hàng phục ma binh, 
Ba cõi đều dậy tiếng hoan nghênh, 
Muôn vật thảy nhờ ơn tế độ.
Chúng con nguyền, 
Dứt bỏ dục tình ngoan cố, 
Học đòi đức tánh quang minh. 
Cúi xin Phật Tổ giám thành,
Từ bi gia hộ.
Chúng con cùng pháp giới chúng sanh
  
Chóng thành đạo cả. 
Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.(30 lần)
Nam mô Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát.  (3 lần)
Nam mô Đại Hạnh Phổ Hiền Bồ Tát. (3 lần)
Nam mô Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát.(3 lần)
Nam mô Đạo Tràng Hội Thượng Phật Bồ Tát. (3 lần)
 

- Bài in trong “Kinh Nhựt Tụng”. Sen vàng xuất bản - Thành Hội Phật giáo TP. HCM tái bản 1994. - Đối chiếu trong "Nghi thức tụng niêm” chùa Xá Lợi Thành Hội Phật Giáo TP. HCM ấn hành 1993.
 
16. SÁM TỤNG VU LAN (I) (Rằm tháng bảy )
Đệ tử chúng con,
Vâng lời Phật dạy, 
Ngày rằm tháng bảy, 
Gặp hội Vu Lan, 
Phạm vũ huy hoàng, 
Đốt hương đảnh lễ. 
Mười phương Tam thế, 
Phật, Pháp, Thánh Hiền, 
Noi gương đức Mục Kiền Liên, 
Nguyện làm con thảo.
Lòng càng áo não,
Nhớ nghĩa thân sinh, 
Con đến trưởng thành, 
Mẹ dày gian khổ, 
Ba năm nhũ bộ, 
Chín tháng cưu mang.
Không ngớt lo toan, 
Quên ăn bỏ ngủ,
Ấm no đầy đủ, 
Cậy có công cha, 
Chẳng quản yếu già,
Sanh nhai lam lũ.
Quyết cùng hoàn vũ,
Phấn đấu nuôi con,
Giáo dục vuông tròn, 
Đem đường học đạo.
Đệ tử ơn sâu chưa báo, 
Hổ phận kém hèn,
Giờ này quỳ trước đài sen, 
Chí thành cung kính, 
Đạo tràng thanh tịnh, 
Tăng bảo trang nghiêm.
Hoặc thừa tự tứ, 
Hoặc hiện tham thiền, 
Đầy đủ thiện duyên, 
Dủ lòng lân mẫn, 
Hộ niệm cho :
Bảy kiếp cha mẹ chúng con,
Đượm nhuần mưa pháp.
Còn tại thế :
Thân tâm yên ổn, 
Phát nguyện tu trì.
Đã qua đời :
Ác đạo xa lìa,
Chóng thành Phật quả. 
Ngửa trông các đức Như Lai,
Khắp cõi hư không,
Từ bi gia hộ.
Nam mô Đại Hiếu Mục Kiền Liên Bồ Tát.
  (3 lần)

- Bài in trong hầu hết kinh Nhựt tụng và Nghi thức tụng niệm ở miền Trung và miền Nam. Được Giáo Hội công nhận là bài tụng chính thức trong Lễ Vu Lan và trong nghi thức Gia đình Phật tử (1964). - Trích từ Kinh Diễn nghĩa của Tổ Huệ Đăng soạn. Tổ đình Thiên Thai Bà Rịa ấn hành 1967.
 
17. SÁM TỤNG PHẬT THÀNH ĐẠO (I) (Mùng tám tháng chạp)
Hào quang chiếu diệu.
Sáng tỏ mười phương,
Ngộ lý chơn thường, 
Phá màn hôn ám.
Đệ tử lòng thành bài sám,
Trước điện dâng hoa,
Cúng dường Phật Tổ Thích Ca,
Ba ngôi thường trú.
Đệ tử chúng con, 
Nhân lành chưa đủ, 
Nghiệp báo theo hoài.
Nay nhờ Văn Phật Như Lai, 
Giáng trần cứu độ, 
Sáu năm khổ hạnh,
Bảy thất tham thiền, 
Ma oán dẹp yên, 
Thần long che chở,
Tâm quang rực rỡ.
Chứng lục thần thông.
Lộ chiếu minh tinh, 
Đạo thành Chánh giác, 
Trời, người hoan lạc, 
Dậy tiếng hoan hô. 
Năm mươi năm hóa độ,
Ba trăm hội đàm kinh, 
Cứu phàm ngu thoát khỏi mê đồ, 
Tiếp Hiền Thánh siêu sinh Tịnh độ
Muôn đời xưng tán,
Vạn đức hồng danh,
Đệ tử chí thành,
Lễ bày kỷ niệm. 
Tâm hương phụng hiến,
Gọi chút báo ân, 
Ngửa trông Vô thượng Pháp vương
  
Từ bi gia hộ.
Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.(30 lần)
Nam mô Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát.(3 lần)
Nam mô Đại Hạnh Phổ Hiền Bồ Tát.(3 lần)
Nam mô Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát.(3 lần)
Nam mô Đạo Tràng Hội Thượng Bồ Tát.(3 lần)
 

- Trích trong "Nghi thức tụng niệm" Chùa Xá lợi Thành hội Phật giáo TPHCM ấn hành 1994, và trong "Liên Hoàn sám nguyện " của Thích Thiện Tâm. Sađéc 1961.
 
18. SÁM TỤNG PHẬT NIẾT BÀN (I) (Rằm tháng hai)
Đệ tử nay một lòng thành kính, 
Giờ phút này quì giữa Đạo tràng.
Kỷ niệm ngày Phật Bát Niết Bàn, 
Trên đất Ấn thành Câu Thi cũ. 
Bốn bộ chúng tổ thành đầy đủ, 
Khắp Nhân Thiên hóa độ chu chuân. 
Chấp thuận lời cầu thỉnh Ba Tuần, 
Xả tuổi thọ trước kỳ ba tháng, 
Thần thông tạm trụ nơi thân mạng, 
Pháp yếu cần Di giáo Tôn đồ, 
Đại Tập đường hội họp Bí sô, 
Nhắc nhở lại các phần đạo phẩm, 
Khuyên tinh tấn thời thường suy gẫm,
Chớ mảy may lười biếng buông lung,
Liền phóng quang chiếu diệu lạ lùng,
Khai thị trước nhân duyên diệt độ.
Đều ba cõi Nhân Thiên thống khổ, 
Tiếc thương tràn huyết lệ thành mưa, 
Sự tình hai nghìn rưỡi năm xưa, 
Giở Di giáo Niết bàn đọc lại.
Cảm động quá, lòng con tê tái, 
Tưởng tượng nhìn trạng thái Sa la,
Giữa hàng cây Song thọ Diêm đà.
Trên ngọn tháp nghiêng mình Từ Phụ. 
Khắp đại chúng mặt mày ủ rủ, 
Khóc than vật vã cực bi ai, 
Thế Tôn khuyên nén bớt tình hoài, 
Nhìn đạo lý vô thường sự vật, 
Đừng chấp trước huyễn thân còn mất,
Hãy nương theo giới luật tu trì, 
Phật diệt còn Pháp đó quy y, 
Tinh nhất hẳn tới kỳ giải thoát.
Kiến giải có gì chưa dứt khoát, 
Chóng nêu lên, cầu quyết tân nghi, 
Nhập Niết bàn đã sắp tới thì, 
Thời khắc đúng như khi thành Đạo. 
Nghe phó chúc lòng càng áo não, 
Trăm mắt nhìn thấu đạo Kim Thân, 
Chi tiết ngưng giao động lần lần, 
Như Lai đã chứng vui tịch diệt. 
Bốn chúng thảy nghẹn ngào mến tiếc,
Khác nào đàn con mất mẹ hiền,
Thụy linh ứng khắp Đại thiên, 
Tu Di nghiêng ngã đất liền động rung ! 
Phạm Vương, Đế Thích, Thiên Cung, 
Tung hoa trổi nhạc không trung cúng dường.
Chúng con phúc bạc vận ương, 
Sinh xa đời Phật, thiếu phương tiện lành, 
Thiết tha cầu chứng vô sanh, 
Giới hương biểu lộ, tấc thành cúng dâng,
Cúi xin Vô Thượng Năng Nhân.
Từ bi gia hộ. 
Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.(3 lần )
 
 

- Trích từ "Liên Hoàn sám nguyện" trang 196-199 - Thích Thiện Tâm - Sa đéc 1961, và trong kinh Nhựt Tụng chùa Đại Giác Saigòn 1974.
 
19. SÁM DI LẶC (I)
Đức Di Lặc ứng vào hiền kiếp, 
Phật thứ năm kế tiếp ra đời ( ), 
Thích Ca Phật Tổ nối ngôi,
Thay quyền giáo hóa về thời đương lai.
Chưa tới kỳ nên Ngài còn ở, 
Đâu Suất cung rực rỡ huy hoàng, 
Hóa thân trong khắp mười phương, 
Phương tiện thuyết pháp chỉ đàng chúng sanh.
Nếu ai sẵn niệm lành tưởng Phật,
Ngài tùy duyên tới mật độ cho, 
Từ bi Ngài vẫn hằng lo, 
Chúng sanh mê muội bởi do si lầm. 
Nên ứng tích Song lâm một kiếp, 
Phó Đại Sĩ ấy biệt hiệu Ngài, 
Đem toàn chánh pháp an bày,
Quyền xảo phương tiện, thuyết khai độ đời.
Lương Võ Đế nhằm thời trị quốc, 
Ngài nhiều phen rời bước tới thăm, 
Giải đáp chánh pháp diệu âm, 
Khiến được toàn quốc ân cần lo tu. 
Ngài từ bi chẳng từ lao khổ, 
Thường chuyển sanh, hóa độ chúng sanh,
Nhà Lương, Phụng hóa, châu Minh, 
Bố Đại Hòa thượng ứng hình nhơn gian. 
Trán đã nhăn, lại mang bụng lớn, 
Thân no tròn, miệng chớm cười hoài,
Thường ngày dạo bước khoan thai, 
Mang theo túi vải vừa dài vừa to.
Nếu ai tưởng dâng cho một vật, 
Mở túi ra Ngài cất vào trong,
An nhàn tự tại thong dong,
Châu du khắp chốn một lòng độ sanh. 
Trong tịnh trí hiện hình lục tặc, 
Cứ đeo theo níu chọc ghẹo Ngài, 
Từ bi phổ cập muôn loài, 
Như tình phụ tử chẳng sai chút nào. 
Công đức ấy thật cao vòi vọi, 
Mong độ sanh thoát khỏi nhơn thiên,
Người nào ăn ở nhơn hiền, 
Tu hành chơn chánh, Ngài liền độ cho.
Độ đời sau chót hằng lo 
Dắt dìu mạt pháp qua đò sông mê,
Chúng sanh nam nữ đồng về,
Long Hoa hội thượng giác mê chỉ rành. 
Chúng con niệm đức Hồng danh, 
Di Lặc tôn Phật, chí thành kỉnh dâng.
Nam mô Đương lai hạ sanh Di Lặc Tôn Phật. (3 lần)
 
 

- Trích Kinh Nhựt Tụng - Chùa Đại Giác ấn hành - Sài gòn 1974. - Ở bản cũ thiếu mất 6 câu chót, nay bổ sung lại cho đầy đủ. (Biên giả)
 
20. SÁM THÍCH CA  (Sám tán Bổn sư I)
Cúi đầu làm lễ Bổn Sư,
Thập phương Điều Ngự điển từ lưu danh, 
Lòng thành thương xót chúng sanh,
Trầm luân khổ hải chẳng đành ngó lơ. 
Phương tiện Ngài mới tùy cơ, 
Giáng sanh trần thế một giờ chẳng sai,
Cung vua Tịnh Phạn đầu thai, 
Xuống làm Thái Tử mượn hài hóa thân.
Sĩ Đạt Ta hiệu thánh nhân, 
Nối dòng họ Thích an dân trị vì, 
Ma Gia hoàng mẫu tới kỳ,
Sanh Ngài bảy bữa liền đi chầu trời.
Dưỡng dục ủy thác có nơi, 
Cho bà Di Mẫu thường thời trông nom,
Thiều quang thắm thoát tiêu mòn, 
Năm mười chín tuổi vợ con đàng hoàng.
Lầu son gác tía cao sang, 
Thế mà Ngài chẳng có màng chút chi,
Một hôm bốn cửa dạo đi, 
Xem thấy tứ khổ lòng thì hoang mang, 
Lui gót trở lại đền vàng,
Xin cùng Hoàng phụ tầm đàng xuất gia.
Thương con chẳng nỡ rời xa, 
Dỗ khuyên ngăn đón ở nhà mà tu, 
Ngài tính không nên chù chừ, 
Một đêm lén trốn giã từ vợ con,
Đi thẳng một mạch lên non,
Sáu năm khổ hạnh thân mòn biết bao.
Trí huệ sáng suốt thâm cao,
Nhưng hình thể yếu tài nào đứng đi, 
Suy nghĩ rốt ráo một khi, 
Ngài liền xuất định tức thì đi ra. 
Xóm làng khất thực dạo qua,
Bồi thân dưỡng thể nương mà công phu, 
Bồ đề tại gốc ngồi tu, 
Đại định bốn chín ngày thu nhứt thời, 
Đạo mầu liễu ngộ tuyệt vời,
Quyết lòng độ chúng luân hồi thoát ra. 
Bốn chín năm ở Ta bà, 
Đem toàn chánh pháp nói ra độ đời,
Đi cùng khắp thảy nơi nơi, 
Tùy duyên hóa độ đầy vơi chẳng màng, 
Thường dân tới bực quan sang, 
Cũng đều độ hết, sẵn sàng như nhau.
Dắt dìu kẻ trước người sau, 
Tu theo Tịnh độ ngõ hầu rước qua, 
Cực lạc cõi ấy cao xa, 
Mười muôn ức cảnh Di Đà pháp vương. 
Từ bi đã sẵn lòng thương,
Tiếp dẫn về đấy chỉ đường tu thêm, 
Sen vàng chín phẩm ở trên. 
Hào quang rực rỡ tứ biên sáng lòa.
Nhắc khi truyền giáo Ta bà,
Ngài hằng thệ nguyện thiết tha những lời:
Ta nay phát nguyện độ đời, 
Chẳng cầu phước báu cùng thời chi riêng, 
Thương vì sanh chúng vô biên, 
Trầm luân khổ hải, đảo điên nhiều bề. 
Phát tâm tối thượng Bồ đề, 
Nguyện cùng muôn loại, đề huề một khi, 
Giác ngộ thành Phật oai nghi, 
Khắp trong pháp giới tức thì trang nghiêm. 
Như được trọn vẹn lời nguyền,
Niết bàn tịch diệt bình yên ta về, 
Xét suy cũng một lời thề, 
Từ bi bác ái mọi bề cao sâu. 
Tức tâm tức Phật nhiệm mầu, 
Muốn được giải thoát lời cầu đâu xa, 
Tìm ngay trong tánh của ta,
Hành theo hạnh nguyện Thích Ca chalành.
Cúi xin Giáo chủ hồng danh 
Từ bi chứng giám tâm thành ngưỡng mong.
Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.
 
 

- Ở bản in lần thứ nhứt và thứ hai, bài sám Thích Ca nguyên trong quyển "Tam Bảo Tôn Kinh" của Thích Ca Tự ấn hành, Gia Định 1968. Đoạn cuối bài sám gồm cả thảy 14 câu có lẽ không phải nguyên bản, chắc do người sau soạn lại theo ý mình.  Nay chúng tôi tìm được một dị bản với đoạn cuối nói đúng ý nghĩa bài sám gồm cả thảy 20 câu (nhiều hơn bài cũ bốn câu). Nên xin được sửa lại cho đúng nguyên tác để tránh nhầm lẫn sau này.  - Trích bản in trong "Nghi Thức Tụng Niệm" của chùa Đại Giác ấn hành - Sàigon 1974. Trang 337 đến trang 339. - Chưa rõ xuất xứ trước tác.
 
21. SÁM DI ĐÀ  (Sám tán Di Đà I)
Muốn đi có một đường nầy, 
Nhứt tâm niệm Phật khó gì thoát ra, 
Vậy khuyên phải niệm Di Đà, 
Hồng danh sáu chữ thật là rất cao.
Hay trừ tám vạn trần lao,
Tham thiền quán tưởng pháp nào cũng thua, 
Di Đà xưa cũng làm vua,
Bỏ ngôi bỏ nước vô chùa mà tu, 
Xét ra từ kiếp đã lâu, 
Hiệu là Pháp Tạng Tỷ kheo đó mà. 
Trong khi Ngài mới xuất gia,
Bốn mươi tám nguyện phát ra một lần. 
Nguyện nào cũng lắm oai thần,
Nguyện nào cũng trọng về phần độ sanh, 
Vì thương thế giới bất bình, 
Nên chi đầu Phật mà đành bỏ ngôi, 
Thầy là Bảo Tạng Như Lai, 
Bạn là Bảo Hải tức ngài Thích Ca.
Thích Ca nguyện độ Ta bà,
Di Đà nguyện mở cửa nhà Lạc bang, 
Mở ao chín phẩm sen vàng,
Xây thành bá bảo đồ đàng thất trân. 
Lưu ly quả đất sáng ngần, 
Lầu châu cát ngọc mười phần trang nghiêm.
Hoa trời rưới cả ngày đêm, 
Có cây rất báu có chim rất kỳ, 
Lạ lùng cái cảnh phương Tây, 
Mười phương cõi Phật cảnh nào cũng thua.
Phong quang vui vẻ bốn mùa, 
Nước reo pháp Phật gió khua nhạc trời.
Di Đà có thệ một lời, 
Mở ra cõi ấy tiếp người vãng sanh, 
Mười phương ai phát lòng lành, 
Nhất tâm mà niệm hồng danh của Ngài.
Hằng ngày trong lúc hôm mai, 
Niệm từ mười tiếng đến vài ba trăm, 
Khi đi, khi đứng, khi nằm, 
Chuyên trì niệm Phật, lòng chăm phát nguyền.
Nguyện sanh về cõi bảo liên, 
Là nơi Cực lạc ở miền Tây phương, 
Đến khi thọ mạng vô thường,
Thì Ngài phóng ngọn hào quang rước liền.
Biết bao phước đức nhơn duyên, 
Đã về Cực lạc còn phiền não chi, 
Sự vui trời cũng chẳng bì,
Đêm đêm thong thả ngày ngày vui chơi.
Sống lâu kiếp kiếp đời đời, 
Không già không chết không dời đi đâu.
 
 

- Bài do Tổ Huệ Đăng chùa Thiên Thai Bà Rịa trước tác- Được in và sử dụng trong hầu hết kinh Nhựt Tụng. - Trích từ "Kinh Tam Bảo Diễn nghĩa " của Tổ Đình Thiên Thai ấn hành 1994.
 
22. SÁM CHUẨN ĐỀ  (Sám tụng chư Bồ tát I)
Chuẩn Đề Vương phép mầu linh hiển, 
Kim thân Ngài biến hiện nhiều tay, 
Tả biên hữu dực đủ đầy, 
Mỗi bên xuất hiện chín tay đàng hoàng.
Cứ mỗi tay đều mang bảo vật,
Để trừ tà cứu vớt chúng sanh,
Từ bi Ngài sẵn lòng lành, 
Muốn độ muôn loại đắc thành quả cao.
Ngài chứng quả ở vào quá khứ,
Chưa chuyển sanh xuống trụ nhơn gian,
Riêng nơi cõi Phật nghiêm trang,
Chưởng quản chốn ấy an nhàn thảnh thơi.
Ngài xem thấy người đời khổ sở,
Lòng từ bi chẳng nỡ bỏ qua, 
Sự thương rộng lớn chan hòa, 
Như lòng người mẹ thật thà thương con. 
Bởi vì thế suy tôn Phật mẫu, 
Thất Cu Chi ấy báu hiệu Ngài, 
Đà La Ni kinh thuyết khai, 
Cầu cho hết thảy trong ngoài thế gian.
Đều tỉnh ngộ hân hoan tu tập, 
Để mau mau vượt cấp kim giai,
Chú thần linh hiển ít bài,
Pháp môn quán tưởng của Ngài thật hay.
Thương chúng sanh quá đầy phiền não,
Lập pháp mầu chánh đạo độ tha,
Thiện tín, xuất gia, tại gia,
Tín tâm tưởng niệm, ắt là độ ngay. 
Phải trai giới hằng ngày soi xét, 
Cứ mỗi đêm y phép tham thiền, 
Hành giả tăng ích phước điền,
Bổn tâm thanh tịnh nghiệp duyên tiêu mòn. 
Thường tin tưởng lòng son kiên cố,
Công tu hành tiến bộ chẳng sai,
Ba la mật địa quả bày,
Bồ đề chánh giác kim đài thưởng công.
Nam mô Thất Câu Chi Phật Mẫu Đại Thánh Chuẩn Đề Vương Bồ Tát.
 
 

- Trích "Liên Hoàn Sám nguyện" - Thích Thiện Tâm Sađéc 1961. - Đối chiếu "Nghi thức Tụng Niệm" - Thích Thiện Huệ Sàigon 1974.
 
23. SÁM QUAN ÂM (Sám tụng Quán Âm I)
Cơn sóng gió nổi trôi chiếc bách, 
Một mình ta vừa lách vừa bơi, 
Chơi vơi mấy độ chơi vơi, 
Vào trong sáu nẻo ra nơi bốn đường.
Nầy Phật tử lục phương tế độ,
Dụng sắc thân dạy dỗ người mê,
Ấy là gió thổi mây về, 
Nước chao sóng dậy tư bề một phen.
Đạo cao cả tập rèn diệu lý, 
Nước hương thơm miều mỹ tòa son.
Ví như thể mẹ tìm con,
Cảm thông ứng hiệp khai môn khắp cùng, 
Vì lẽ đó ta dùng Quán Thế, 
Bố thí nầy một thể ban ra, 
Thí thân nào có nại hà, 
Phải duyên ta thí để mà độ sanh.
Chư Bồ Tát thường hành lục độ, 
Cơ duyên nầy nhiều thuở bố vi, 
Hễ ai có phước duyên thì, 
Niệm tâm vừa khởi các Ngài độ cho.
Thừa Phật ấy nào đo nào lượng, 
Biết mấy đời đã hưởng đặc ân, 
Đã đành là sự thí thân, 
Thí tài, thí pháp cũng cần như nhau.
Tài, pháp thí còn sâu còn rộng,
Tài cho ra chẳng mộng chẳng nương, 
Đã cho thì chớ có tường,
Thọ thì chớ nghĩ sự thường vốn không.
Lòng bác ái cố công rèn đúc,
Dắt người lên đến bực thăng bằng, 
Bao nhiêu cũng đủ, ta hằng, 
Chăm lo hành đạo vớt thăng luân hồi. 
Từ quá khứ các đời Bồ Tát,
Chư Phật đều một loạt hóa sanh,
Ra đời độ chúng hữu tình,
Dìu ra nhà lửa đến thành Pháp vương.
Nhơn duyên ấy lập phương khai thị, 
Phật tử nầy cố chí học theo,
Thường hành Bồ Tát ráng chèo,
Lìa từ thấp quả lần trèo lên cao.
Thinh Văn bỏ, nhập vào Bồ Tát,
Lấy nhơn duyên khai thác đạo mầu,
Nay câu lục độ ráng trau,
Pháp môn chỉ có bấy nhiêu đó mà. 
Một thừa Phật không ba không bốn, 
Bởi trí căn minh, độn mà ra, 
Tựu trung có một, một là,
Phật thừa Bồ Tát ráng mà hành theo. 
Trong kinh nói đủ chiều muôn hạnh,
Đủ sắc thân tướng tánh quang minh, 
Đủ thần thông lực tám ngành. 
Chung qui tánh kiến tâm minh tựu thành.
Bồ-đề thọ, vốn mình không thọ, 
Giống hữu tình tuy có mà không, 
Có nhơn duyên mới hiệp đồng,
Hiểu trong chơn thể tỏ tường bổn lai.
Phật tức tâm, tâm ta có Phật,
Tâm tức Phật, Phật ở nơi lòng,
Nhẹ nhàng rửa sạch bụi hồng, 
Trau câu mô Phật thì lòng mới nguôi.
Tâm tánh ấy mau chùi cho sạch,
Gội bụi trần học cách thiền gia,
Từ bi độ chúng hà sa,
Nguy nan cứ dạ Ta bà lại qua.
Quan Âm Phật Ta bà dạo khắp, 
Tìm nạn tại cứu cấp sanh linh, 
Ấy là lục độ trau mình,
Ra ân bố thí dẹp tình phân chia.
Thuyền Bát nhã nối tia nhựt nguyệt, 
Tam tạng kinh giải hết lục trần, 
Phá tan xiềng xích ái ân, 
Lo câu lục tự chuyên cần độ ta. 
Đạo cảm ứng Phật ta dung hợp,
Nghĩa dung thông chỉ một không hai, 
Bóng hình hình bóng là ai,
Trăng trong nước tịnh không sai bóng lòng.
Trên liên tọa chín tầng hé nở, 
Tấm lòng thành một thuở hóa sanh, 
Sanh làm Phật, Phật độ sanh,
Nhành dương nước tịnh anh linh độ đời.
Phật Di Đà là người phàm tục,
Đức Thích Ca vốn bực vương gia,
Quan Âm cũng chỉ người ta, 
Thế Chí vốn là một kẻ đầu thai.
Phật Hiền Thánh không ai thoát khỏi, 
Ở kiếp người đi đến Niết bàn.
An tức tịnh, tịnh là an,
Hiểu trong tâm trí thấy tràng hạt sen. 
Khắp lục đạo người chen kẻ lấn, 
Biển trầm luân mê tánh cho vui, 
Kìa lầu các, nọ cao ngôi, 
Ba hơi kết cuộc khó thời mang theo.
Gây tội ác ngặt nghèo phải thọ, 
Trách đất trời sao ở bất công, 
Hỡi ai ghi lấy làm lòng, 
Trau câu niệm Phật để hòng độ thân. 
Ao thất bảo trân châu mã não,
Cửu liên hoa ngôi báu dành đây, 
Muốn ra khỏi kiếp đọa đày,
Ráng công tu luyện có ngày hóa sanh.
Đừng mến tiếc Nam thành thế giới, 
Cõi Diêm phù tội lỗi mê tân, 
Cố công tham cứu học lần, 
Di Đà miệng niệm chuyên cần chớ sai.
Trên Phật Thánh độ tai qua khỏi, 
Dưới phàm trần hết nỗi khổ luân, 
Ráng niệm, niệm bất ly thân, 
Sông mê thoát đặng hóa thân độ đời.
Ma Ha Bát Nhã qua thời,
Bước lên bờ giác thảnh thơi an nhàn.
 
 

- Trích từ "Tam Bảo Tôn Kinh" Thích Ca Tự Sàigòn 1967. - Đối chiếu sửa chữa lại với bản in "Liên hoàn sám nguyện" Thích Thiện Tâm - Sađéc 1961.
 
24. SÁM QUAN ÂM. (Sám tụng Quan Âm II)
Quan Thế Âm oai thần lồng lộng, 
Khắp thế gian đều trọng danh ngài, 
Chúng sanh hết thảy ai ai, 
Khi nào gặp nạn niệm Ngài liền qua. 
Bởi người thế gần xa ngưỡng mộ, 
Quan Thế Âm cứu khổ độ sanh,
Nếu ai có một niệm lành, 
Hễ Ngài nghe tiếng ứng danh tới liền. 
Dù bịnh trọng liên miên khổ cực, 
Niệm danh Ngài lập tức khỏi ngay, 
Bao nhiêu tai nàn hằng ngày,
Chí tâm niệm tới danh Ngài cũng qua. 
Vô lượng kiếp Ta bà thế giới,
Ngài giáng sanh xuống cõi dương gian,
Hóa thân công chúa đoan trang,
Diệu Trang Vương ngự ngai vàng vua cha. 
Diệu Thanh ấy chính là chị cả,
Sau cũng tu chứng quả Văn Thù,
Diệu Âm chị thứ cũng tu,
Phổ Hiền chứng Thánh đền bù công lao.
Trọn một nhà được vào cảnh Phật,
Lòng từ bi chơn chất đáng ghi,
Tuổi nhỏ trí cả ai bì, 
Dốc lòng mộ đạo quyết thì đi tu. 
Trọn chín năm chẳng từ lao khổ, 
Mong công thành cứu độ chúng sanh,
Thời kỳ trai giới tu hành, 
Tại động Hương Tích bắc thành ViệtNam.( )
Một cảnh tiên mây lam che phủ,
Có cam tuyền, thạch nhũ bao quanh, 
Cảnh tốt dành cho người lành, 
Kim Đồng Ngọc Nữ ứng danh theo hầu.
Dưới bệ ngọc chia nhau sớm tối,
Chầu hai bên không lỗi đạo thầy, 
Luôn luôn chân chánh thẳng ngay, 
Hành theo ý chỉ của thầy ban ra. 
Quan Thế Âm danh là Tự Tại, 
Khắp tam thiên qua lại dạo chơi, 
Từ bi Ngài muốn độ đời, 
Mười hai đại nguyện thiệt thời cao xa.
Nguyện nào cũng đều là rốt ráo,
Chuyên tâm về chánh đạo độ tha,
Biển Nam Hải, núi Phổ Đà,( )
Trụ ở nơi ấy cũng là Hương Sơn. 
Trong một phẩm Phổ Môn thị hiện, 
Đức Như Lai thuật chuyện khen Ngài, 
Oai thần linh hiển không hai, 
Tầm thinh cứu khổ chẳng nài công phu. 
Nếu có kẻ muốn tu cư sĩ,
Hay cùng là tùy ý muốn chi, 
Ngài liền ứng hiện tức thì,
Tới nơi dìu dắt cấp kỳ độ cho. 
Hay có kẻ qua đò mắc nạn,
Cùng bao nhiêu tai nạn dọc đường, 
Chí thành đốt nén tâm hương,
Vừa niệm danh hiệu tai ương qua liền. 
Những chuyện ấy hiển nhiên đều thấy,
Đức Như Lai truyền dạy chẳng sai, 
Chúng ta chớ có quản nài, 
Một lòng ngưỡng mộ cầu Ngài độ cho.
Trong khổ hải đò Từ vẫn đợi, 
Vớt chúng sanh đưa tới Lạc bang, 
Chín từng sen báu đài vàng,
Di Đà thọ ký rõ ràng thảnh thơi.
Từ bi cứu khổ độ đời,
Tầm thinh giải nạn đến nơi an lành. 
Nam mô Tầm thinh Cứu khổ Đại bi Quán Thế Âm Bồ Tát.
 

- Bản in ở tuyển tập trong 2 lần xuất bản trước thiếu 2 câu chót - Có bổ sung đính chính hoàn chỉnh, sau khi đối chiếu so sánh lại từ 2 bản : “Tam Bảo Tôn Kinh” của Thích Ca Tự 1968 và “Kinh Nhựt tụng” của chùa Đại Giác 1974.
 
25. SÁM THẾ CHÍ  (Sám tụng chư Bồ Tát II)
Đại Thế Chí thường hay hỷ xả, 
Lòng Từ bi thấu cả tam đồ, 
Phật tử như có nhiễm ô,
Lỡ lầm có tội đọa vô ba đường. 
Ngài liền tới hiển dương Phật pháp,
Khuyên ăn năn cải ác qui chơn, 
Hồi đầu hướng thiện nhứt tâm, 
Từ bi hỷ xả ân cần độ cho. 
Ngài để tâm hằng lo muôn loại, 
Vì vô minh vướng phải luân hồi, 
Trong vòng nhân quả đời đời, 
Ác sa địa ngục, phước thời nhơn thiên.
Bởi vì thuở sanh tiền một kiếp,
Vị hoàng hai tên thiệt Ni Ma, 
Vô Tránh Niệm hiệu vua cha,
Ăn ở phước đức cả nhà đều tu. 
Nhờ Bảo Hải ngôn từ chơn Thánh, 
Khuyên cúng dường lập hạnh Bồ đề, 
Ngài nghe như tỉnh giấc mê, 
Trước Phật Bảo Tạng đề huề thưa qua.
Nay con quyết lập ra đại nguyện, 
Xin chứng minh những chuyện con cầu:
Từ nay vô lượng kiếp sau, 
Hành theo thập thiện, mưu hầu độ sanh. 
Bồ Tát đạo chuyên hành mãi mãi,
Cốt dắt dìu muôn loại hữu tình, 
Tu hành chơn chánh tấn tinh, 
Đều thành Phật quả đinh ninh lời nguyền. 
Đức Bảo Tạng Ngài liền thọ ký:
Cõi trang nghiêm quản trị sau nầy,
Thiện Trụ Trân Bảo Như Lai, 
Trải vô lượng kiếp hiệu Ngài như trên.
Hiện bây giờ ở bên Cực lạc, 
Cảnh Tây phương đẳng giác thường chầu, 
Di Đà giáo chủ đứng đầu, 
Trợ dương chánh pháp ngõ hầu tiếp sanh. 
Ngài vẫn sẵn niệm lành độ chúng, 
Hễ ai ai trì tụng tu hành,
Tùy duyên hiển hiện ứng danh, 
Mê tân dắt khỏi, giác thành đưa lên. 
Nam Mô Đại Lực Đại Thế Chí Bồ Tát.
 
 

- Trích đối chiếu trong hai bản : "Tam Bảo Tôn Kinh" Thích Ca Tự - Gia Định 1968 và "Kinh Nhựt Tụng " Chùa Đại Giác - Sàigon 1974.
 
26. SÁM ĐỊA TẠNG  (Sám tụng chư Bồ Tát III)
Địa Tang Vương lập nhiều đại nguyện, 
Đã trải bao biến chuyển tăng kỳ, 
Phân thân khắp chốn dạo đi, 
Quyết lòng độ chúng thoát thì trầm luân. 
Nếu còn kẻ lưng chừng khổ não, 
Ngài chẳng đành chứng đạo Bồ đề, 
Trong mười cửa ngục gớm ghê, 
Còn thấy tù tội chưa hề trống không. 
Ngài thệ nguyện chẳng mong chứng Phật, 
Lòng từ bi mới thật rộng sâu, 
Mong chúng sanh trình độ cao, 
Hiểu sâu đạo cả, công lao tu hành. 
Tới khi ấy lợi danh phủi sạch, 
Khắp nơi nơi thanh bạch thái bình,
Như Lai nói Địa Tạng kinh, 
Cung trời Đao Lợi, công trình Ngài tu. 
Vô lượng kiếp hiền từ có một,
Trải bao đời chỉ cốt tu nhân, 
Làm thân trai, gái, vua, dân, 
 Kiếp nào Ngài cũng ân cần lợi tha. 
Có kiếp hóa Bà la môn nữ,
Dốc một lòng khuyên nhủ mẹ già, 
Sau khi chết xuống Diêm la,
Thương xót cầu Phật hiệu là Giác Hoa. ( )
Tấm lòng thành cũng hòa cảm Phật,
Nên chỉ đường cứu vớt tội căn,
Quang Mục, Trưởng giả hóa thân, 
Kiếp nào Ngài cũng giữ phần hiếu nhân. 
Đời nhà Tấn, muôn dân an lạc, 
Hiệu Vĩnh Huy, Ngài thác sanh ra, 
Thánh trào cung điện Tân La, 
Tên Ngài Kiều Giác, chính là họ Kim.
Hăm bốn tuổi quyết tìm đạo cả, 
Núi Cửu Hoa tĩnh tọa tu thân,
Bảy lăm năm lánh bụi trần, 
Vừa chín chín tuổi chứng phần quả cao.
Trong thời ấy Cát Hào họ Mẫn, 
Cứ mỗi năm một bận trai đàn, 
Tới kỳ cúng Phật cầu an, 
Ông đều sửa lễ đoan trang thỉnh Ngài.
Xuống chứng đàn trai Tăng rực rỡ, 
Đem phép mầu hóa độ chúng sanh, 
Mẫn Công có một trai lành,
Đạo Minh tên hiệu ứng danh theo Ngài. 
Hai mươi năm chẳng nài công khó,
Nên người mau tỏ rõ đạo mầu, 
Quy y con trước cha sau,
Cả hai chứng quả, theo hầu hai bên.
Kiếp chót Ngài như trên đã kể, 
Thiệt vẻ vang cho kẻ tu hành, 
Một trăm mười chín hưởng sanh ( ), 
Nhập diệt ba chục, tháng lành mạnh thu( ). 
Bởi nhiều kiếp công tu rốt ráo, 
Ngài đắc thành thánh đạo hiển dương, 
Phong đại thánh Địa Tạng Vương,
U minh giáo chủ, dẫn đường độ sanh. 
Dưới địa ngục, U thành một cõi, 
Nhờ đức Ngài bớt khỏi cực hình, 
Biết bao tù tội chúng sinh, 
Ăn năn sám hối tụng kinh tu hành. 
Cung Đao Lợi xướng danh Địa Tạng,
Đức Như Lai khai giảng cho Ngài, 
Tới đời tượng, mạt trần ai,
Thay cầm chánh pháp an bài độ sanh.
Đợi tới kỳ giáng sanh Di Lặc, 
Ấy là ngày công đắc viên thành, 
Thiệt là hiển hiển linh linh, 
Phân thân mười cõi biến hình dạo chơi.
Nếu có kẻ tưởng trời niệm Phật,
Tùy duyên lành, Ngài mật độ cho, 
Sông mê dìu dắt qua đò, 
Tới nơi bến giác tự do thanh nhàn. 
Tay cầm tích trượng châu vàng 
Động tan cửa ngục cứu toàn chúng sanh 
Thành tâm tưởng niệm hiệu danh 
Hiện thân cảm ứng ngục thành tiêu tan 
Nam Mô Minh vương Cứu khổ Đại nguyện Địa Tạng Vương Bồ Tát.

- Có đối chiếu và bổ sung thêm bốn câu chót  - Trích từ hai bản in (sách đã dẫn)
 
27. SÁM MỤC LIÊN.  (Sám tụng Vu Lan II)
Con quỳ lạy Phật Thích Ca, 
Chứng minh đệ tử tên là Mục Liên,
Lòng con mộ đạo tu hiền, 
Xuất gia theo Phật cầu nguyền hôm nay, 
Nghe kinh Phật thuyết bảy ngày,
Minh tâm kiến tánh Như Lai trọn lành, 
Lục thông đầy đủ nên danh, 
Muốn tìm cha mẹ lòng thành gắng công, 
Đền ơn cho bú ẵm bồng, 
Liền dùng đạo nhãn xem vòng thế gian, 
Thấy vong mẹ khổ muôn ngàn, 
Ốm gầy đói khát trong đàng quỉ ma, 
Mục Liên kêu mẹ khóc la,
Đau lòng thương mẹ đọa sa Diêm Đình. 
Thanh Đề nhìn thấy con mình, 
Mục Liên cứu mẹ hết tình gắng công,
Con ơi! Mẹ đói trong lòng, 
Mục Liên nghe nói khóc ròng thở than, 
Vội vàng trở lại thế gian, 
Bới cơm một bát đem sang mẹ mừng. 
Và cơm vô miệng nửa chừng,
Chén cơm hóa lửa phừng phừng thành than, 
Mục Liên xem thấy kinh hoàng, 
Trong lòng đau đớn khóc than buồn tình. 
Mẹ ơi ! Niệm Phật độ mình, 
Trở về lạy Phật cầu xin mẹ già.
Thích Ca đức Phật phân qua, 
Mẹ ngươi tội nặng đọa sa nghiệp hành, 
Ta truyền cứu tế pháp lành, 
Cần cầu Tăng chúng tịnh thanh chú nguyền.
Cầu cho phụ mẫu hiện tiền, 
Lục thân quyến thuộc bình yên điều hòa,
Bảy đời phụ mẫu đã qua,
Về trời hưởng phước sáng lòa hào quang, 
Vui chơi thong thả thanh nhàn, 
Ngày rằm tháng bảy lập đàn trai Tăng,
Sắm cơm trăm món đồ ăn, 
Trái cây ngũ quả hương đăng rõ ràng, 
Chiếu giường, bồn nước, mùng màn,
Dầu, đường, trà lá, bát vàng đựng cơm, 
Những đồ vật quí bông thơm, 
Thành tâm dọn tiệc Lan Bồn phân minh.
Cúng dường Tam bảo cầu kinh, 
Chư Tăng tịnh giới giữ gìn nghiêm trang, 
Cầu cho thí chủ trai đàn, 
Tâm lành thiền định vái van chúc nguyền, 
Thanh Đề khổ ách hết liền, 
Ngày rằm tháng bảy thành tiên về trời.
Noi gương hiếu thảo đời đời,
Xót thương phụ mẫu hiện thời nuôi con, 
Nhai cơm cho bú hao mòn,
Ơn sâu nghĩa nặng thương con hết lòng, 
Trời cao đất rộng mênh mông, 
Biển hồ lai láng sánh đồng Thái sơn.
Tu hành báo tứ trọng ân, 
Độ đời ba cõi sạch trơn trọn lành, 
Mục Liên đại hiếu tu hành, 
Báo ân phụ mẫu nên danh độ đời.

0 Kommentare:

New Comments

Chia Sẻ

Twitter Delicious Facebook Digg Stumbleupon Favorites