Pages

08 October 2012

PHÁP BẢO ĐÀN KINH - Phần III


  "Thế nên từ tâm niệm đến thân miệng, thấy được điều gì sai, điều gì lỗi thì sửa, đó là tu. Trái lại thấy người mà không thấy mình, đó là lỗi, đó là tạo nghiệp. Vì vậy muốn gần với đạo, người tu phải hằng thấy mình, đúng tinh thần nhà Thiền gọi là phản quan tự kỷ..."

KINH PHÁP BẢO ĐÀN GIẢNG GIẢI
Hoà Thượng Thích Thanh Từ
Thiền Viện Thường Chiếu 1999 PL. 2543



Phẩm Thứ Hai: Bát Nhã

DỊCH

Ngày khác, Vi sử quân thưa thỉnh, Tổ đăng tòa bảo đại chúng: “Tất cả nên tịnh tâm niệm Ma-ha Bát-nhã Ba-la-mật-đa.” Lại bảo:
Này Thiện tri thức, trí Bát-nhã Bồ-đề, người đời vốn tự có, chỉ nhân vì tâm mê không thể tự ngộ, phải nhờ đến Đại thiện tri thức chỉ đường mới thấy được tánh. Phải biết người ngu, người trí Phật tánh vốn không có khác, chỉ duyên mê ngộ không đồng, nên có ngu có trí. Nay tôi vì nói pháp Ma-ha Bát-nhã Ba-la-mật, khiến cho các ông, mỗi người được trí tuệ, nên chí tâm lắng nghe, tôi vì các ông mà nói.
Này Thiện tri thức, người đời trọn ngày miệng tụng Bát-nhã nhưng không biết Tự tánh Bát-nhã ví như nói ăn mà không no, miệng chỉ nói Không, muôn kiếp chẳng được thấy tánh, trọn không có ích.
Này Thiện tri thức, Ma-ha Bát-nhã Ba-la-mật là tiếng Phạn, Trung Hoa dịch là Đại Trí Tuệ Đến Bờ Kia, nó phải là hành nơi tâm, không phải tụng ở miệng. Miệng tụng mà tâm chẳng hành như huyễn như hóa, như sương, như điện. Miệng niệm mà tâm hành ắt tâm và miệng hợp nhau, Bản tánh là Phật, lìa tánh không riêng có Phật.
Sao gọi là Ma-ha? Ma-ha là lớn, tâm lượng rộng lớn ví như hư không, không có bờ mé, cũng không có vuông tròn lớn nhỏ, cũng không phải xanh vàng đỏ trắng, cũng không có trên dưới dài ngắn, cũng không sân không hỉ, không phải không quấy, không thiện không ác, không có đầu đuôi, cõi nước chư Phật trọn đồng với hư không; diệu tánh của người đời vốn không, không có một pháp có thể được, Tự tánh chân không cũng lại như thế.
Này Thiện tri thức, chớ nghe tôi nói Không liền chấp không, thứ nhất là không nên chấp không, nếu để tâm không mà ngồi tĩnh tọa, đó tức là chấp vô ký không.
Này Thiện tri thức, thế giới hư không hay bao hàm vạn vật sắc tượng, mặt trời, mặt trăng, sao, núi, sông, đất liền, suối khe, cỏ cây rừng rậm, người lành người dữ, pháp lành pháp dữ, thiên đường địa ngục, tất cả biển lớn, các núi Tu-di, thảy ở trong hư không. Tánh không của người đời cũng lại như thế. Này Thiện tri thức, Tự tánh hay bao hàm muôn pháp ấy là Đại. Muôn pháp ở trong Tự tánh của mọi người, nếu thấy tất cả người ác cùng với lành, trọn đều không chấp, không bỏ, cũng không nhiễm trước, tâm cũng như hư không, gọi đó là Đại, nên nói là Ma-ha.
Này Thiện tri thức, người mê miệng nói, người trí tâm hành. Lại có người mê, để tâm rỗng không ngồi tĩnh tọa, trăm việc không cho nghĩ tự gọi là đại, một bọn người này không nên cùng họ nói chuyện vì là tà kiến.
Này Thiện tri thức, tâm lượng rộng lớn khắp giáp cả pháp giới, dụng tức rõ ràng, phân minh ứng dụng liền biết tất cả, tất cả tức một, một tức tất cả, đi lại tự do, Tâm thể không bị ngăn ngại tức là Bát-nhã.
Này Thiện tri thức, tất cả trí Bát-nhã đều từ Tự tánh sanh, chẳng từ bên ngoài vào, chớ lầm dụng ý nên gọi là Chân tánh tự dụng. Một chân thì tất cả chân, tâm lượng rộng lớn không đi theo con đường nhỏ, miệng chớ trọn ngày nói không mà trong tâm chẳng tu hạnh này, giống như người phàm tự xưng là Quốc vương trọn không thể được, không phải là đệ tử của ta.
Này Thiện tri thức, sao gọi là Bát-nhã? Bát-nhã, Trung Hoa dịch là trí tuệ. Tất cả chỗ, tất cả thời, mỗi niệm không ngu, thường hành trí tuệ tức là Bát-nhã hạnh. Một niệm ngu tức Bát-nhã bặt, một niệm trí tức Bát-nhã sanh. Người đời ngu mê, không thấy Bát-nhã, miệng nói Bát-nhã mà trong tâm thường ngu, thường tự nói ta tu Bát-nhã, niệm niệm nói không nhưng không biết được Chân không. Bát-nhã không có hình tướng, tâm trí tuệ ấy vậy. Nếu khởi hiểu như thế tức gọi là Bát-nhã trí.
Sao gọi là Ba-la-mật? Đây là lời nói của Ấn Độ, Trung Hoa dịch là đến bờ kia, giải nghĩa là lìa sanh diệt; chấp cảnh thì sanh diệt khởi như nước có sóng mòi, tức gọi là bờ này, lìa cảnh thì không sanh diệt như nước thường thông lưu, ấy gọi là bờ kia, nên gọi là Ba-la-mật.
Này Thiện tri thức, người mê miệng tụng, chính khi đang tụng mà có vọng, có quấy; niệm niệm nếu hành Bát-nhã, ấy gọi là Chân tánh. Người ngộ được pháp này, ấy là pháp Bát-nhã, người tu hạnh này, ấy là hạnh Bát-nhã. Không tu tức là phàm, một niệm tu hành, tự thân đồng với Phật.
Này Thiện tri thức, phàm phu tức Phật, phiền não tức Bồ-đề. Niệm trước mê tức phàm phu, niệm sau ngộ tức Phật; niệm trước chấp cảnh tức phiền não, niệm sau lìa cảnh tức Bồ-đề.
Này Thiện tri thức, Ma-ha Bát-nhã Ba-la-mật tối tôn, tối thượng, tối đệ nhất, không trụ, không qua cũng không lại, chư Phật ba đời từ trong đó mà ra. Phải dùng đại trí tuệ này đập phá ngũ uẩn, phiền não, trần lao, tu hành như đây quyết định thành Phật đạo, biến tam độc thành giới định tuệ.
Này Thiện tri thức, pháp môn của tôi đây từ một Bát-nhã phát sanh tám muôn bốn ngàn trí tuệ. Vì cớ sao? Vì người đời có tám muôn bốn ngàn trần lao, nếu không có trần lao thì trí tuệ thường hiện, chẳng lìa Tự tánh. Người ngộ pháp này tức là vô niệm, vô ức, vô trước, chẳng khởi cuống vọng, dùng tánh Chân như của mình, lấy trí tuệ quán chiếu, đối với tất cả pháp không thủ không xả tức là thấy tánh thành Phật đạo.
Này Thiện tri thức, nếu muốn vào pháp giới thậm thâm và Bát-nhã tam-muội thì phải tu Bát-nhã hạnh, phải trì tụng kinh Kim Cang Bát-nhã tức được thấy tánh, nên biết kinh này công đức vô lượng vô biên, trong kinh đã khen ngợi rõ ràng, không thể nói đầy đủ được. Pháp môn này là Tối thượng thừa, vì những người đại trí mà nói, vì những người thượng căn mà nói. Những người tiểu căn tiểu trí nghe pháp này, tâm sanh không tin. Vì cớ sao? Ví như có một trận mưa lớn khắp cả cõi nước, thành ấp chợ búa đều bị trôi dạt cũng như trôi những lá táo. Nếu trận mưa lớn đó mưa nơi biển cả thì không tăng không giảm. Như người Đại thừa hoặc người Tối thượng thừa nghe kinh Kim Cang thì tâm khai ngộ, thế nên biết Bản tánh họ tự có trí Bát-nhã, tự dùng trí tuệ thường quán chiếu nên không nhờ văn tự. Thí như nước mưa không phải từ trời có, nguyên là từ rồng mà dấy lên, khiến cho tất cả chúng sanh, tất cả cỏ cây, hữu tình vô tình thảy đều được đượm nhuần. Trăm sông các dòng đều chảy vào biển cả hợp thành một thể, trí tuệ Bát-nhã nơi Bản tánh chúng sanh cũng lại như thế.
Này Thiện tri thức, người tiểu căn nghe pháp môn đốn giáo này, ví như là cỏ cây gốc rễ nhỏ, nếu bị mưa to thì đều ngả nghiêng không thể nào tăng trưởng được. Người tiểu căn cũng lại như thế, vốn có trí tuệ Bát-nhã cùng với người đại trí không sai biệt, nhân sao nghe pháp không thể khai ngộ? Vì do tà kiến chướng nặng, cội gốc phiền não sâu, ví như đám mây lớn che kín mặt trời, không có gió thổi mạnh thì ánh sáng mặt trời không hiện. Trí Bát-nhã cũng không có lớn nhỏ, vì tất cả chúng sanh tự tâm mê ngộ không đồng, tâm mê bên ngoài thấy có tu hành tìm Phật, chưa ngộ được Tự tánh tức là tiểu căn. Nếu khai ngộ đốn giáo không thể tu ở bên ngoài, chỉ nơi tâm mình thường khởi chánh kiến, phiền não trần lao thường không bị nhiễm tức là thấy tánh.
Này Thiện tri thức, trong ngoài không trụ, đi lại tự do, hay trừ tâm chấp, thông đạt không ngại, hay tu hạnh này cùng kinh Bát-nhã vốn không sai biệt.
Này Thiện tri thức, tất cả kinh điển và các văn tự, Đại thừa, Tiểu thừa, mười hai bộ kinh đều nhân người mà an trí, nhân tánh trí tuệ mới hay dựng lập. Nếu không có người đời thì tất cả muôn pháp vốn tự chẳng có, thế nên biết muôn pháp vốn tự nhân nơi người mà dựng lập, tất cả kinh sách nhân người mà nói có; nhân vì trong người kia có ngu và có trí, người ngu là tiểu nhân, người trí là đại nhân, người ngu hỏi nơi người trí, người trí vì người ngu mà nói pháp, người ngu bỗng nhiên ngộ hiểu, tâm được khai tức cùng với người trí không có khác.
Này Thiện tri thức, chẳng ngộ tức Phật là chúng sanh, khi một niệm ngộ chúng sanh là Phật, thế nên biết muôn pháp trọn ở nơi Tự tâm, sao chẳng từ trong Tự tâm liền thấy được Chân như Bản tánh? Kinh Bồ-tát Giới nói rằng: Bản tánh của ta nguyên tự thanh tịnh, nếu biết được Tự tâm thấy tánh đều thành Phật đạo. Kinh Tịnh Danh nói: Liền khi đó bỗng hoát nhiên được Bản tâm.
Này Thiện tri thức, xưa ta ở nơi Ngũ tổ Nhẫn, một phen nghe liền được ngộ, chóng thấy Chân như Bản tánh, nên đem giáo pháp này lưu hành khiến cho người học đạo chóng ngộ được Bồ-đề. Mỗi người tự quán nơi tâm, tự thấy Bản tánh, nếu tự chẳng ngộ phải tìm những bậc Đại thiện tri thức, người hiểu được giáo pháp Tối thượng thừa, chỉ thẳng con đường chánh, ấy là Thiện tri thức có nhân duyên lớn, gọi là hóa đạo khiến được thấy tánh. Tất cả pháp lành nhân nơi Thiện tri thức mà hay phát khởi. Ba đời chư Phật, mười hai bộ kinh, ở trong tánh của người vốn tự có đủ, không có thể tự ngộ thì phải cầu Thiện tri thức chỉ dạy mới thấy. Nếu tự mình ngộ thì không nhờ cầu bên ngoài, nếu một bề chấp, bảo rằng phải nhờ Thiện tri thức khác mong được giải thoát thì không có lẽ phải. Vì cớ sao? Trong Tự tâm có tri thức tự ngộ, nếu khởi tà mê vọng niệm điên đảo thì Thiện tri thức bên ngoài tuy có giáo hóa chỉ dạy, cứu cũng không thể được. Nếu khởi chánh chân Bát-nhã quán chiếu thì trong khoảng một sát-na vọng niệm đều diệt, nếu biết Tự tánh một phen ngộ tức đến quả vị Phật.
Này Thiện tri thức, trí tuệ quán chiếu, trong ngoài sáng suốt, biết Bản tâm mình, nếu biết Bản tâm tức là gốc của sự giải thoát. Nếu được giải thoát tức là Bát-nhã tam-muội, tức là vô niệm. Sao gọi là vô niệm? Nếu thấy tất cả pháp mà tâm không nhiễm trước ấy là vô niệm, dụng tức khắp tất cả chỗ, cũng không dính mắc tất cả chỗ, chỉ thanh tịnh nơi Bản tâm khiến sáu thức ra sáu cửa đối trong sáu trần không nhiễm không tạp, đi lại tự do, thông dụng không kẹt, tức là Bát-nhã tam-muội, tự tại giải thoát gọi là vô niệm hạnh. Nếu trăm vật chẳng nghĩ, chính khi đó khiến cho niệm bặt đi, ấy là pháp phược, ấy gọi là biên kiến.
Này Thiện tri thức, người ngộ được pháp vô niệm thì muôn pháp đều thông, người ngộ được pháp vô niệm thì thấy cảnh giới của chư Phật, người ngộ được pháp vô niệm thì đến địa vị Phật.
Này Thiện tri thức, đời sau người được pháp của ta, đem pháp môn đốn giáo này, đối với hàng người đồng kiến đồng hành phát nguyện thọ trì như là thờ Phật, cố gắng tu thân không dám lui sụt thì quyết định vào quả vị Thánh; nhưng phải truyền trao, từ trước đến giờ, thầm truyền trao phó chớ không được giấu kín chánh pháp. Nếu không phải là hàng đồng kiến đồng hành, ở trong pháp môn khác thì không được truyền trao, e tổn tiền nhân kia, cứu kính vô ích, sợ người ngu không hiểu, chê bai pháp môn này rồi trăm kiếp ngàn đời đoạn chủng tánh Phật.
Này Thiện tri thức, tôi có một bài tụng Vô Tướng, mỗi người phải tụng lấy, người tại gia, người xuất gia chỉ y đây mà tu, nếu không tự tu, chỉ ghi nhớ lời của tôi thì cũng không có ích gì. Nghe tôi tụng đây:
Thuyết thông và tâm thông,
Như mặt trời giữa không,
Chỉ truyền pháp kiến tánh,
Ra đời phá tà tông.
Pháp thì không đốn tiệm,
Mê ngộ có mau chậm,
Chỉ pháp kiến tánh này,
Người ngu không thể hiểu.
Nói tuy có muôn thứ,
Trở về lý chỉ một,
Phiền não trong nhà tối,
Thường sanh mặt trời tuệ.
Tà đến phiền não sanh,
Chánh đến phiền não dứt,
Tà chánh đều không dùng,
Thanh tịnh mới hoàn toàn.
Bồ-đề vốn Tự tánh,
Khởi tâm tức là vọng,
Tâm tịnh ở trong vọng,
Chỉ chánh không ba chướng.
Người đời nếu tu hành,
Tất cả trọn chẳng ngại,
Thường tự thấy lỗi mình,
Cùng đạo tức tương đương.
Sắc loại tự có đạo,
Đều chẳng chướng ngại nhau,
Lìa đạo riêng tìm đạo,
Trọn đời không thấy đạo.
Lăng xăng qua một đời,
Kết cuộc tự sanh não,
Muốn thấy đạo chân thật,
Hạnh chánh tức là đạo.
Nếu không có tâm đạo,
Hạnh tối không thấy đạo,
Người chân chánh tu hành,
Không thấy lỗi thế gian.
Nếu thấy lỗi người khác,
Lỗi mình đã đến bên,
Người quấy ta chẳng quấy,
Ta quấy tự có lỗi.
Chỉ dẹp lỗi nơi tâm,
Phá trừ các phiền não,
Yêu ghét chẳng bận lòng,
Duỗi thẳng hai chân ngủ.
Muốn nghĩ giáo hóa người,
Tự phải có phương tiện,
Chớ khiến người nghi ngờ,
Tức là Tự tánh hiện.
Phật pháp nơi thế gian,
Không lìa thế gian giác,
Lìa thế tìm Bồ-đề,
Giống như tìm sừng thỏ.
Chánh kiến gọi xuất thế,
Tà kiến là thế gian,
Tà chánh đều dẹp sạch,
Tánh Bồ-đề hiện rõ.
Tụng này là đốn giáo,
Cũng gọi thuyền đại pháp,
Mê nghe trải nhiều kiếp,
Ngộ trong khoảng sát-na.
(Thuyết thông cập tâm thông,
Như nhật xử hư không,
Duy truyền kiến tánh pháp,
Xuất thế phá tà tông.
Pháp tức vô đốn tiệm,
Mê ngộ hữu trì tật,
Chỉ thử kiến tánh môn,
Ngu nhân bất khả tất.
Thuyết tức tuy vạn ban,
Hợp lý hoàn qui nhất,
Phiền não ám trạch trung,
Thường tu sanh tuệ nhật.
Tà lai phiền não chí,
Chánh lai phiền não trừ,
Tà chánh câu bất dụng,
Thanh tịnh chí vô dư.
Bồ-đề bản Tự tánh,
Khởi tâm tức thị vọng,
Tịnh tâm tại vọng trung,
Đãn chánh vô tam chướng.
Thế nhân nhược tu đạo,
Nhất thiết tận bất phòng,
Thường tự kiến kỷ quá,
Dữ đạo tức tương đương.
Sắc loại tự hữu đạo,
Các bất tương phòng não,
Ly đạo biệt mích đạo,
Chung thân bất kiến đạo.
Ba ba độ nhất sanh,
Đáo đầu hoàn tự áo,
Dục đắc kiến chân đạo,
Hạnh chánh tức thị đạo.
Tự nhược vô đạo tâm,
Ám hạnh bất kiến đạo,
Nhược chân tu đạo nhân,
Bất kiến thế gian quá.
Nhược kiến tha nhân phi,
Tự phi khước thị tả,
Tha phi ngã bất phi,
Ngã phi tự hữu quá.
Đãn tự khước phi tâm,
Đả trừ phiền não phá,
Tắng ái bất quan tâm,
Trường thân lưỡng cước ngọa.
Dục nghĩ hóa tha nhân,
Tự tu hữu phương tiện,
Vật linh bỉ hữu nghi,
Tức thị Tự tánh hiện.
Phật pháp tại thế gian,
Bất ly thế gian giác,
Ly thế mích Bồ-đề,
Kháp như cầu thố giác.
Chánh kiến danh xuất thế,
Tà kiến thị thế gian,
Tà chánh tận đả khước,
Bồ-đề tánh uyển nhiên.
Thử tụng thị đốn giáo,
Diệc danh đại pháp thuyền,
Mê văn kinh lụy kiếp,
Ngộ tắc sát-na gian.)
Tổ lại bảo: “Nay ở chùa Đại Phạm nói pháp đốn giáo này, khắp nguyện cả pháp giới chúng sanh ngay lời nói này đều được thấy tánh thành Phật.” Khi ấy Vi sử quân cùng quan liêu đạo tục nghe Tổ nói, không ai mà chẳng tỉnh ngộ, đồng thời làm lễ đều tán thán: “Lành thay! Đâu ngờ ở Lãnh Nam có Phật ra đời!”

GIẢNG 1
Trong bộ Pháp Bảo Đàn, phẩm Bát-nhã là phẩm rất quan trọng, tất cả chúng ta học, nếu thâm nhập được phẩm này, mới thấy rõ chủ trương, đường lối tu của Lục Tổ, nên ở đây quí vị nghe hiểu cho kỹ. Tại sao chúng tôi dám nói như thế? Vì Lục Tổ ngộ từ kinh Kim Cang, mà kinh Kim Cang tức là Bát-nhã; cái chủ yếu mà Ngài ngộ được, Ngài diễn đạt lại cho chúng ta biết khiến chúng ta thấy được tầm quan trọng của nó thì sự tu hành mới khỏi lầm lẫn.
Ngày khác, Vi sử quân thưa thỉnh, Tổ đăng tòa bảo đại chúng: “Tất cả nên tịnh tâm niệm Ma-ha Bát-nhã Ba-la-mật-đa.” Lại bảo:
Này Thiện tri thức, trí Bát-nhã Bồ-đề, người đời vốn tự có, chỉ nhân vì tâm mê không thể tự ngộ, phải nhờ đến Đại thiện tri thức chỉ đường mới thấy được tánh. Phải biết người ngu, người trí Phật tánh vốn không có khác, chỉ duyên mê ngộ không đồng nên có ngu có trí.
Mở đầu Lục Tổ chỉ cho chúng ta thấy rõ rằng, tất cả chúng ta ai cũng sẵn có Đại trí tuệ Bát-nhã. Sở dĩ người quên nó, mê tức là quên, do tâm quên không nhận được nên gọi đó là ngu; trái lại người tỉnh giác được Trí tuệ Bát-nhã thì gọi là trí. Vì tất cả chúng ta mê nên phải nhờ Thiện tri thức chỉ dạy, nếu chúng ta nhân lời chỉ dạy của Thiện tri thức, nhận ra được Bản tánh mình tức là từ ngu chuyển thành trí hay là từ mê đổi thành ngộ. Như vậy mê hay ngộ chỉ là do chúng ta biết sống với trí Bát-nhã hay là bỏ quên nó thôi, chớ không phải có người ngộ khác với người mê. Vì ai cũng sẵn có, nhưng người biết sống trở lại thì gọi là ngộ, người quên đi thì gọi là mê, mê ngộ không đồng, lỗi tại quên và nhớ, chớ không có gì lạ cả. Như vậy từ Trí tuệ Bát-nhã, chúng ta suy ra đến Phật cũng thế. Do chúng ta mê Tánh giác nên gọi là chúng sanh, đức Phật ngộ được Tánh giác nên gọi là Phật, thế nên làm chúng sanh hay làm Phật chẳng qua tại mê với ngộ thôi. Cũng thế, chúng ta thành trí, thành ngu cũng do nhớ, biết trở về với tánh Bát-nhã hay không biết đó thôi. Vì thế người học đạo không cần tìm những gì xa xôi, chỉ cần phải khai thác chỗ sâu thẳm nơi mình sẵn có, khai thác được đó là giác, bỏ quên tức là mê, chớ đừng tìm cái gì ở bên ngoài. Đó là điểm chủ yếu Lục Tổ nêu lên, Ngài muốn chúng ta mỗi người nhận ra chớ đừng lầm lẫn tìm kiếm ở đâu khác. Tiếp đến Tổ dạy:
Nay tôi vì nói pháp Ma-ha Bát-nhã Ba-la-mật, khiến cho các ông, mỗi người được trí tuệ, nên chí tâm lắng nghe, tôi vì các ông mà nói.
Này Thiện tri thức, người đời trọn ngày miệng tụng Bát-nhã nhưng không biết Tự tánh Bát-nhã ví như nói ăn mà không no, miệng chỉ nói Không, muôn kiếp chẳng được thấy tánh, trọn không có ích.
Trước hết Ngài chỉ sự lầm lẫn của chúng ta. Ngài bảo có người trọn ngày cứ tụng Bát-nhã mà không biết Tự tánh Bát-nhã. Tự tánh Bát-nhã tức là tánh Bát-nhã sẵn nơi mình. Hầu hết Phật tử chúng ta ít có người không thuộc kinh Bát-nhã. Ai cũng nói ngày nào tôi cũng tụng đôi ba biến Bát-nhã, nhưng nếu có ai hỏi Tự tánh Bát-nhã là gì thì đều không biết! Như vậy là miệng chỉ tụng mà tâm không thấy, không đạt được, thế nên Ngài mới nói: Ví như người nói ăn mà không no, nói tôi ăn bánh bao, tôi ăn bánh mì v.v... cả trăm thứ bánh nhưng rốt cuộc bụng vẫn đói meo! Nói ăn chưa phải là ăn, ăn phải thực sự ăn, chỉ nói suông chưa đủ. Cũng thế, nếu chúng ta tu mà chỉ một bề đọc tụng, đó chỉ có giá trị bên ngoài, chớ chưa có giá trị thật ở trong, giá trị thật ở trong là giá trị chúng ta nhận được. Đức Phật vì chúng ta chỉ cái chúng ta đã bỏ quên, nhân lời chỉ đó chúng ta nhận ra nó, đó là chúng ta biết tụng kinh để thấy tánh; trái lại chúng ta chỉ một bề đọc tụng cho hay, nhưng không nhận ra Phật muốn chỉ cái gì cho mình, ví như người nói ăn mà bụng không no, thế nên Tổ mới bảo: “miệng chỉ nói không, muôn kiếp chẳng thấy tánh”, như vậy trọn không có lợi ích. Người trí khác hơn người mê ở điểm: Lục Tổ nghe người tụng một câu, chỉ mới nghe thôi mà đã thấy, còn chúng ta hiện nay đích thân tụng mà vẫn không thấy gì cả. Đó là điểm khác nhau. Như vậy chúng ta phải cố gắng lắng nghe lời dạy của Tổ, để biết tinh thần Tự tánh Bát-nhã ra sao, đó là cái chủ yếu mà Ngài cố dạy chúng ta trong phẩm này.
Này Thiện tri thức, Ma-ha Bát-nhã Ba-la-mật là tiếng Phạn, Trung Hoa dịch là Đại Trí Tuệ Đến Bờ Kia, nó phải là hành nơi tâm, không phải tụng ở miệng.
Đại Trí Tuệ Đến Bờ Kia hay có chỗ cũng dịch là Trí tuệ cứu kính viên mãn, trí tuệ đó phải nơi tâm mình phát ra, phải ngộ lấy, chớ không phải tụng suông ngoài miệng, nếu cứ cho tụng suông là đủ, là chúng ta không hiểu được trí tuệ này, vì trí tuệ này là trí tuệ của mình nên cần phải hành ở tâm chớ không phải tụng ở miệng.
Miệng tụng mà tâm chẳng hành như huyễn như hóa, như sương, như điện. Miệng niệm tâm hành ắt tâm và miệng hợp nhau, Bản tánh là Phật, lìa tánh không riêng có Phật.
Câu này nhiều người dễ hiểu lầm. Lục Tổ dạy: “miệng tụng mà tâm chẳng hành như huyễn, như hóa, như sương, như điện v.v...” ý Ngài như thế nào? Có phải tụng kinh Bát-nhã thấy các pháp như mộng, như huyễn, như sương v.v... phải không? Hay là nghĩa như thế nào? Đoạn này ý Ngài bảo: Chúng ta chỉ tụng suông ở miệng thì việc đó chợt qua rồi mất cũng như huyễn, như hóa, như sương, như điện chớp chớ không có thật. Nếu chỉ tụng suông, khi tụng thì còn nói Bát-nhã, dừng tụng thì Bát-nhã mất, cũng như sương mù, điện chớp, chợt thấy rồi mất, không có thật. Thế nên chủ yếu Ngài khuyên chúng ta miệng tụng tâm phải hành, như thế tâm miệng tương ưng, tâm và miệng hợp nhau tự nhiên chúng ta sẽ thấy được Phật tánh, chính Bản tánh ấy là Phật, lìa Bản tánh ra không còn có Phật nào khác.
Sao gọi là Ma-ha? Ma-ha là lớn, tâm lượng rộng lớn ví như hư không, không có bờ mé, cũng không có vuông tròn lớn nhỏ, cũng không phải xanh vàng đỏ trắng, cũng không có trên dưới dài ngắn, cũng không sân không hỉ, không phải không quấy, không thiện không ác, không có đầu đuôi, cõi nước chư Phật trọn đồng với hư không; diệu tánh của người đời vốn không, không có một pháp có thể được, Tự tánh chân không cũng lại như thế.
Tôi giảng rõ lại một lần nữa, chữ Ma-ha nghĩa là lớn, vì tâm lượng của chúng ta rộng lớn như hư không, tâm lượng đó gọi là tâm lượng Bát-nhã, rộng lớn không có bờ mé, không có các tướng vuông tròn dài ngắn xanh vàng... cho đến không có những tâm niệm phải quấy, tốt xấu v.v… Tâm thể đó bao trùm tất cả cõi nước của chư Phật, giống như hư không; diệu tánh của người đời cũng vậy, vốn không một pháp có thể được, bởi không một pháp có thể được nên gọi là Tự tánh chân không. Như vậy quí vị hiểu chữ Chân Không tôi đặt cho Tu viện chưa? Chân không tức là cái thể thênh thang của Bát-nhã. Bát-nhã là trí tuệ, trí tuệ thênh thang không có bờ mé, không có giới hạn, không có một vật ở trong, chỉ là cái trí tuệ rộng thênh thang, trí tuệ đó gọi là Chân không. Đó là chỗ mà Lục Tổ bảo là “Bản lai vô nhất vật” và do đó mà Ngài được vào cửa Thiền.
Bản lai vô nhất vật là tinh thần của Chân không, không có một vật, vì thể đó thênh thang. Ví dụ như trong nhà thiền này, hiện chúng ta gồm cả trăm người tụ họp nơi đây, khi mãn giờ giảng rồi nhà thiền này như thế nào? Cả trăm người tụ hội thì có tiếng ồn, khi tất cả ra khỏi nhà giảng thì nhà giảng trống không. Trống không là không có người chớ không phải là không có nhà thiền, nhà thiền vẫn có, nhưng không có người, không có tiếng động lao xao nên nói nhà thiền trống. Cũng thế, hiện tâm chúng ta chứa đủ tham sân si nên thương buồn giận ghét v.v... luôn đầy ứ trong đó, do đó chưa bao giờ chúng ta thấy được cái thể rỗng lặng sáng suốt. Sở dĩ chúng ta tu là để loại những niệm tham sân si ra, khi chúng bị loại ra hết thì chỉ còn một cái trí sáng ngời, đó gọi là Chân không; cái không chân thật, không còn những niệm sanh diệt chứa trong đó. Vậy quí vị thử kiểm lại tâm mình xem sao, nó là Chân không hay nó quá đầy đến độ muốn tràn ra nữa? Vì thế cả ngày chúng ta cứ mê muội theo những tướng sanh diệt, nó dẫn chúng ta chạy ngược chạy xuôi rồi buồn, thương, giận, ghét v.v... do đó mặt mày luôn thay đổi, không bình tĩnh, điềm đạm. Nay nếu tâm chúng ta loại hết những niệm đó thì khi ấy tự nhiên là một Tâm thể rỗng rang, và Tâm thể rỗng rang này gọi là Trí tuệ Bát-nhã, có chỗ khác gọi là Chân tánh hay Tự tánh. Quí vị thấy đâu có gì lạ, chính cái đó sẵn nơi mình, chỉ vì chúng ta không thấy được kho chứa mà chỉ thấy những hạt giống chứa trong kho, những hạt giống đó ra vào lăng xăng rồi chúng ta chạy theo chúng mãi, nên quên mất cái kho sáng suốt rỗng rang của chính mình. Khi nào tất cả quí vị không còn một niệm dấy lên, tôi xin hỏi quí vị lúc đó có tri, có giác hay không? Tai có nghe, mắt có thấy hay không? Tướng mạo của cái hay thấy hay nghe đó như thế nào? Quí vị thử diễn tả xem! Khi tất cả vọng tưởng lặng hết chỉ còn cái thấy cái nghe, nghĩa là cảm giác biết tất cả, nhưng không có một niệm nào, khi đó quí vị diễn tả thử xem cái thấy nghe đó tướng mạo ra sao. Nếu có tướng mạo thì có giới hạn, không tướng mạo tức là vô hạn. Nói Đại là như thế, nó không có giới hạn, nó bao trùm tất cả, nhưng hiện nay nó bị khuôn, bị cuộc trong tứ đại này thành bị giới hạn; nếu một ngày nào chúng ta sống được với Thể tánh đó, rời khỏi thân này thì nó trùm cả tam giới. Đây giải nghĩa chữ Đại là như thế.
Rộng lớn thênh thang là khi nào không còn một niệm duyên theo cảnh, chỉ có cái hằng thấy hằng nghe, hay nói gọn hơn là chỉ một Tánh giác, đó mới là thênh thang, mới là rộng lớn. Còn tất cả những niệm tưởng, dù là niệm tưởng hư không cũng có giới hạn. Chữ Đại là thoát ra ngoài tất cả những tướng trạng đối đãi, không còn đối đãi nữa thì tướng mạo của Tâm thể này hay của Trí tuệ Bát-nhã là như thế. Nói thênh thang là để chúng ta thấy rõ nơi chúng ta có một cái rộng lớn thênh thang hằng tri hằng giác, mà chúng ta bỏ quên, rồi bám vào những tướng buồn vui, giận ghét, theo hình sắc, theo âm thanh cho đó là mình, nên chúng ta bị quyện ở trong ấy, như những cọng cỏ bị cuốn trong bánh xe đang quay vùn vụt không gỡ ra được, cứ như thế mà trôi lăn trong sanh tử, lên xuống không có ngày cùng. Nay chúng ta biết gỡ ra, không kẹt vào đó nữa, tự nhiên tâm hồn mình thênh thang. Đó là chỗ mà chư Phật, chư Tổ cố tình muốn chỉ cho chúng ta. Sống được với cái đó rồi, mới thấy nó là cái chân thật. Vì thế quí vị mới thấy rõ chủ trương của đạo Phật dạy chúng ta tu là phải định.
Định là gì? Tức là dừng các vọng tưởng lăng xăng, vui buồn giận ghét lao xao. Dừng được chúng rồi mới thấy Tâm thể thênh thang, mới đi đến chỗ giác ngộ. Tất cả phương pháp, không phương pháp nào ngoài định; định là định những vọng tưởng lăng xăng, mà lâu nay chúng ta cứ chấp nhận là mình, nên nó mới dẫn chúng ta chạy vùn vụt không phút nào ngừng, cả đến giờ nghỉ cũng không nghỉ, chạy riết đến nóng đầu, đó là tại chúng ta đã lầm nhận nó là mình! Như thế bao nhiêu phương pháp của Phật, Tổ dạy cốt để chúng ta dừng được vọng tưởng, dừng được rồi mới thấy Tâm thể thênh thang của chính mình, Tâm thể thênh thang đó gọi là Ma-ha Bát-nhã. Như thế hàng ngày quí vị tụng ba biến, bảy biến Bát-nhã mà những chữ đầu có vẻ chưa thấm. Nếu chúng ta thấm các chữ đó rồi thì tụng Bát-nhã là để chúng ta sống, chớ không phải tụng suông. Đa số người hiện nay cứ tụng suông, tụng rồi tính biến để cộng sổ, kể công với Phật, mà không hiểu điểm quan trọng chính là phải sống trở lại trí tuệ của mình. Chúng ta chỉ nhớ lời Phật dạy mà không biết trở lại cái Thể chân thật của chính mình nên mới lầm lẫn. Nhân giảng Bát-nhã tôi mới nói cho quí vị biết ý nghĩa chữ Chân Không tên của Tu viện chúng tôi. Chính chỗ mà đức Lục Tổ chỉ, chỗ không có một vật, vốn không một pháp có thể được, chỗ đó mới gọi là Tự tánh chân không, tức là tánh của chính mình, thật là rỗng rang không còn một cái gì trong đó.
Này Thiện tri thức, chớ nghe tôi nói Không liền chấp không, thứ nhất là không nên chấp không, nếu để tâm không ngồi tĩnh tọa, đó tức là chấp vô ký không.
Ngài dạy đừng có nghe Ngài nói không rồi chấp không, như chấp Chân không là không có gì cả, nếu cho thật không có gì cả là lầm. Không có tất cả những vọng tưởng lăng xăng, chớ cái rỗng rang chân thật đâu phải không, cũng như tôi đã thí dụ không có người lao xao trong nhà thiền, chớ không phải cái nhà là không. Nhiều khi chúng ta hiểu lầm nghe nói không là bám vào không, nói là không ngơ rồi nghĩ tu đến chỗ không ngơ đó làm chi. Thế nên chấp không là một bệnh, Lục Tổ mới bảo: “Thứ nhất là không nên chấp không, nếu để tâm không ngồi tĩnh tọa đó là chấp vô ký không.” Có người vì nghe nói giữ tâm mình cho đừng xao xuyến, đừng loạn động, cho nó không ngơ mới đúng, nên khi ngồi để tâm không ngơ, nghĩa là không cho nó có gì hết, như vậy đúng không? Đó là vô ký không, cái không mà không biết gì cả. Trái lại người biết tu, khi không có vọng niệm thì cái Thể tri giác tràn đầy. Cũng như nghe tôi nói trong nhà thiền không có người, quí vị biết đây là nhà thiền trống. Nhà thiền trống chớ không phải không có nhà thiền. Tôi nói trong nhà thiền không có người thì đừng chấp là không có nhà thiền, không là không người, chớ không phải là không có nhà thiền. Cũng thế không có những tâm loạn tưởng, chớ không phải không có trí Bát-nhã thênh thang. Hiểu như vậy thì khi chúng ta lặng hết những vọng tưởng tức trí Bát-nhã thênh thang hiện tiền, hằng nghe, hằng thấy, như thế làm sao nói là không. Thế mà có nhiều người đọc kinh Pháp Bảo Đàn đến đoạn này thì sợ, nói rằng: Thầy dạy con buông xả, đừng để tâm theo vọng tưởng, mãi rồi nó im lìm, nó không ngơ thì lúc đó lạc vào chỗ chấp vô ký không của Lục Tổ nói rồi! Đó là đa số người đã lầm lẫn. Thật ra chúng ta nói không và người không biết mà nói không, hai bên khác nhau. Người không biết khi nói không là để không ngơ luôn không biết chi cả; còn chúng ta nói không vọng tưởng, khi vọng tưởng lặng cái tri giác hay cái hằng tri hằng giác đó hằng nghe hằng thấy. Tôi thường chỉ quí vị tuy không có vọng tưởng, nhưng mắt vẫn thấy, tai vẫn nghe, tất cả giác quan đều có biết thì làm sao nói không được. Không là không vọng tưởng chớ cái hằng giác đó đâu có không, như thế đâu có rơi vào “vô ký không” như Lục Tổ nói. Hiểu thật rõ, quí vị mới không bị lầm. Thế nên người tu chỉ nhích một tí là sai, khéo một chút là đúng.
Tôi thường nhắc quí vị lời dạy của ngài Huyền Giác: “tỉnh tỉnh lặng lặng phải” và “lặng lặng tỉnh tỉnh phải”, lặng lặng là không nhưng hằng tỉnh tỉnh, chớ không phải là không ngơ. Trái lại “tỉnh tỉnh loạn tưởng sai” và “lặng lặng hôn trầm sai”. Thế nên chúng ta phải thấy rõ lặng trong cái tỉnh, tỉnh trong cái lặng thì phải. Nếu tỉnh mà loạn thì sai, khi ngồi tỉnh táo mà nghĩ đủ chuyện thì đó là bệnh. Nếu lặng lặng mà vẫn tỉnh vẫn sáng thì đúng, nếu lặng lặng mà hôn trầm, gật lên gật xuống là sai. Quí vị nhớ đó là một công thức rõ ràng trong khi tu để biết thế nào là đúng, thế nào là sai. Có nhiều người ngồi gật lên gật xuống, nói: “hôm nay tôi ngồi không có chút vọng tưởng nào”, ngồi ngủ thì làm sao có vọng tưởng. Có người nói: “tôi ngồi tỉnh táo” mà thật là nghĩ nhớ đủ chuyện, như thế cả hai đều sai. Phải tỉnh mà lặng, lặng mà tỉnh mới đúng, chớ lặng mà thiếu tỉnh, tỉnh mà thiếu lặng đều là sai. Quí vị phải nhớ lặng là không, tỉnh là hằng giác, như thế luôn luôn cạnh cái không có cái giác chớ không phải là không ngơ, nên không lạc vào vô ký không. Những người không biết, ngồi để tâm không ngơ, đâu biết thế nào là tỉnh, thế nào là lặng nên rơi vào vô ký không, đó là do không biết được cái tỉnh trong cái không; trái lại chúng ta không mà tỉnh, chớ không phải chỉ có lặng, đó là yếu điểm của sự tu.
Này Thiện tri thức, thế giới hư không hay bao hàm vạn vật sắc tượng, mặt trời, mặt trăng, sao, núi, sông, đất liền, suối khe, cỏ cây rừng rậm, người lành người dữ, pháp lành pháp dữ, thiên đường địa ngục, tất cả biển lớn, các núi Tu-di, thảy ở trong hư không. Tánh không của người đời cũng lại như thế.
Trong đoạn này, Ngài dùng hư không để ví dụ cho Tánh không của chúng ta, hư không bao trùm tất cả thế giới, người vật v.v... đều nằm trong hư không. Có thế giới nào không nằm trong hư không? Có vật nào không nằm trong hư không? Như vậy hư không bao trùm muôn tượng, muôn tượng đều nằm trong hư không. Lục Tổ bảo tâm tánh chúng ta khi rỗng lặng cũng như thế, rộng như hư không nên nói tâm như hư không. Như hư không chớ không phải hư không, nhớ như thế. Hư không vô tri còn chúng ta hằng giác, như là như cái thể rỗng rang rộng lớn đó, nhưng một bên vô tri, một bên hằng giác nên khác nhau. Nhiều người không hiểu nghe nói tâm như hư không, họ tưởng tu rồi tâm thành hư không, đó là sự lầm lẫn của một số học giả, họ cho Niết-bàn là chỗ không ngơ. Đã không ngơ thì tu làm chi? Thế nên phải biết rõ tất cả sự tu hành chủ yếu là đến chỗ rỗng lặng đó, nó có diệu dụng gì chúng ta mới muốn đến đó, chớ thành không ngơ thì đến làm chi?
Này Thiện tri thức, Tự tánh hay bao hàm muôn pháp ấy là Đại. Muôn pháp ở trong Tự tánh của mọi người, nếu thấy tất cả người ác cùng với lành, trọn đều không chấp không bỏ, cũng không nhiễm trước, tâm cũng như hư không, gọi đó là Đại, nên nói là Ma-ha.
Đoạn trước Ngài diễn tả thể đại của tâm, của Bát-nhã, đoạn này Ngài chỉ chúng ta cách được thể đại đó, tức là Ngài dạy chúng ta tu. Trước hết Ngài bảo Tự tánh của chúng ta bao hàm muôn pháp, nó trùm tất cả. Tất cả muôn pháp đều ở trong Tự tánh; muốn được tánh rỗng rang đó chúng ta phải làm sao. Phải thấy tất cả người ác, người lành đều không thủ, không xả, cũng không nhiễm trước, tâm như hư không, đó là Đại. Như thế là được cái tánh rỗng rang đó. Chúng ta được như thế không? Thấy người ác thì giận, thấy người hiền thì thương, bình thường mọi người đều như vậy. Thấy tốt thì thích, thấy xấu thì chê, vì thế mới có nhiễm, có trước, nên tâm mình luôn luôn chớ không thể không. Trái lại, nếu thấy tất cả việc đó mà không dính, không nhiễm, tâm rỗng rang như hư không là được tánh như hư không. Dễ hay khó? Quí vị chỉ cần thấy được tất cả mà tâm vẫn như hư không thì tâm đó rỗng rang, còn nếu thấy mà có thêm điều gì như yêu ghét v.v... thì nó hết rỗng rang, tức là nó cuốn theo hình ảnh mình thấy. Đó là Tổ dạy chúng ta tu một cách hết sức đơn giản, như vậy lúc nào chúng ta cũng tu được, đi đâu, đối tiếp ai... nếu muốn được tâm thênh thang thì phải như thế. Nếu kẹt vào bất cứ một cái nào là mất thênh thang, đó là chỗ ứng dụng tu rất rõ ràng. Nhiều khi đọc qua chúng ta không thấy Tổ dạy tu, nhưng khi nghiên cứu kỹ mới thấy Ngài dạy rất rõ. Vậy muốn được cái tánh rỗng rang đó thì, khi thấy tất cả người thiện ác, tốt xấu v.v... chúng ta đừng thủ, đừng xả, không nhiễm trước thì lúc đó tâm mình đồng với hư không, thể tâm đồng với hư không, thể đó là thể đại nên gọi là Ma-ha. Thể đại của tâm mình, thể đại của Bát-nhã thênh thang như hư không, nó không tướng mạo, nó trùm hết muôn pháp. Muốn được cái thể đó thì phải tu thế nào? Đối với tất cả việc tốt xấu, phải quấy của người, chúng ta đừng nhiễm, đừng dính mắc. Như thế là Đại, là Ma-ha. Mỗi khi tụng Ma-ha Bát-nhã thì quí vị phải nhớ như vậy, chớ không phải cứ đọc suông là đủ.
Này Thiện tri thức, người mê miệng nói, người trí tâm hành.
Người mê chỉ nói suông ngoài miệng, còn người trí hành ở trong tâm. Người mê đi đâu cũng nói Bát-nhã, cũng tụng làu làu Bát-nhã ở ngoài miệng, còn người trí không nói một câu Bát-nhã nào nhưng gặp duyên, gặp cảnh thì không chạy theo, như thế trong hai người, người nào tu thật? Một người gặp việc gì cũng nói đó là không, là hư dối, không thật, chỉ nói suông thôi, nhưng tâm vẫn duyên theo; còn một người hằng thấy, hằng biết, tâm không duyên với cảnh thì đó gọi là hành trong tâm. Thế nên tụng ở ngoài miệng với hành trong tâm là hai việc khác nhau. Hiện nay, đa số người tu chúng ta thích tụng ngoài miệng hơn hành trong tâm. Kinh nào cũng thuộc làu... rồi lấy đó làm sự nghiệp! Tụng cho mình, tụng luôn cả cho người, độ người cũng bằng tụng, như vậy cho là tu Bát-nhã! Vì thế chúng ta phải hiểu rõ chân tinh thần của đạo Phật là phải tỉnh giác, tỉnh giác cái chân thật của chính mình. Nghe kinh để biết điều đúng sai, tà chánh, bỏ những cái sai, cái tà, trở về cái chánh, cái đúng, như thế mới là học đạo, chớ không phải chúng ta học thuộc lòng để nói nhiều, tụng nhiều, căn bản là chúng ta phải hành ở trong tâm, thế mới gọi là người trí biết tu.
Lại có người mê, để tâm rỗng không ngồi tĩnh tọa, trăm việc không cho nghĩ tự gọi là đại, một bọn người này không nên cùng họ nói chuyện vì là tà kiến.
Tổ quở nặng những người nói để tâm rỗng không, không cho nghĩ gì cả, đó gọi là đại, bọn người này không nên cùng họ nói chuyện, vì sao? Vì họ rơi vào tà kiến. Tâm không ngơ là vô ký không. Vì những người này không biết vọng lặng thì chân hiện, họ chỉ biết cái vọng thôi mà không biết cái chân, như vậy là tà, tức là nhìn lệch; chỉ để tâm không ngơ tức nhiên rơi vào không, mà rơi vào không, không phải tà kiến là gì? Chúng ta ngồi thiền trăm vật có nghĩ không? Có niệm gì không? Có hai lối niệm: cái niệm dấy lên từng câu, từng lời là cái niệm động, còn cái niệm hằng nhớ Tánh giác của mình, biết mình có Tánh giác, hằng sống với cái tỉnh giác đó thì niệm đó là niệm tỉnh, nên gọi là niệm Chân như. Niệm là nhớ, hằng nhớ Tánh giác, không chạy theo vọng tưởng, như vậy đâu phải chúng ta không nghĩ. Tổ Qui Sơn có nói “tư lương phi tư lương xứ”, nghĩa là suy nghĩ chỗ không suy nghĩ, tức là hằng nhớ chỗ không suy nghĩ, chớ không phải là không ngơ. Như vậy mới hằng giác, chính đó gọi là “nhất niệm vạn niên”, là một niệm muôn năm. Bởi vì nhớ là tỉnh, quên thì mê, quí vị ngồi một lúc mà quên không biết mình làm gì thì khi đó muốn gục, hoặc bị dẫn đi chỗ khác. Thế nên mình hằng tỉnh hằng giác, hằng nhớ mình đang sống bằng Tánh giác, chớ không phải là không nhớ, không nghĩ. Còn người nói ngồi không nghĩ gì hết thì họ rơi vào không ngơ, như vậy  không phải tà kiến là gì? Thế nên đoạn này không giản trạch khéo một chút, thì người đọc kinh Pháp Bảo Đàn dễ lầm. Quí vị thấy nói để tâm trống không là đúng thì bị Tổ quở nặng, đám người đó không nên nói chuyện với họ, vì đó là tà kiến. Chúng ta không nghĩ tới một vật gì ở ngoài, nhưng hằng nhớ Chân như hằng nhớ Tánh giác, hằng nhớ nên mới tỉnh, chớ còn quên thì mê rồi. Hằng nhớ Tánh giác, nhớ mà không tìm, tỉnh giác mà không tìm nó, tìm nó là sai, chỗ này thật  khó nói, nhưng phải hiểu thật rõ mới không lầm. Nếu chúng ta cứ đè, không cho nó nghĩ gì cả, mà nói là Đại, nên bị Tổ quở là tà kiến.
Này Thiện tri thức, tâm lượng rộng lớn khắp giáp cả pháp giới, dụng tức rõ ràng, phân minh ứng dụng liền biết tất cả, tất cả tức một, một tức tất cả, đi lại tự do, Tâm thể không bị ngăn ngại tức là Bát-nhã.
Ngài chỉ cho chúng ta thấy tâm lượng rộng thênh thang đó nếu dụng tức liễu liễu thường tri, nếu dùng thì hằng tri hằng giác chớ không phải không ngơ, rõ ràng ứng dụng chớ không phải là không biết, nghe vẫn hằng nghe, thấy vẫn hằng thấy, đó gọi là liễu liễu thường tri. Biết tất cả, tất cả tức một, một tức tất cả, Tâm thể đó thênh thang nên bao trùm tất cả. Như tôi nói tất cả núi sông, cây cối, muôn vật đều nằm trong hư không. Đứng về tất cả cây cối núi rừng v.v... thì rất là nhiều, nhưng đứng về hư không thì không nhiều. Hư không chỉ có một mà trùm tất cả muôn vật, nên một là tất cả; tất cả cây cối núi rừng đều không ngoài hư không, nên tất cả là một. Cũng như vậy, muôn pháp không rời Tự tánh, thì đó là tất cả là một, Tự tánh tức là tâm tánh mình, tất cả không rời tâm tánh mình nên nói tất cả là một. Tâm tánh mình bao trùm tất cả, nên nói một là tất cả. Chúng ta nói hư không bao trùm vạn tượng, điều đó ai cũng hiểu, nhưng nói tâm mình bao trùm muôn vật thì ai hiểu nổi? Nói bao trùm, đừng hiểu nó bao trùm tất cả những hiện tượng. Muôn vật có tên là từ đâu mà ra? Muôn vật thành vật này vật vật kia... thành muôn vật là do tâm, như vậy tâm không trùm muôn vật là gì? Nếu không có tâm thì muôn vật có tên muôn vật hay không? Nếu không có tâm thì đâu gọi đây là bàn, đây là ly, đây là đồng hồ v.v... Không có tất cả tên đó, thì muôn vật không thành muôn vật. Tâm trùm muôn vật, muôn vật từ tâm mà ra, điều đó rất là rõ ràng. Tỉ dụ nơi đây chúng ta có cả trăm người, mỗi người có mỗi tên khác nhau, nên nói cả trăm người khác nhau. Tên khác nhau là từ đâu có? Rõ ràng là từ tâm dấy niệm của cha mẹ hoặc Thầy Tổ ban cho mình một cái danh thành mỗi người khác biệt nhau. Như vậy sự khác biệt đó là do tâm khởi, nếu tâm không khởi thì chắc gặp nhau chúng ta không biết chào gọi nhau bằng gì. Như vậy muôn pháp có là từ tâm. Đa số người không hiểu cứ nghĩ muôn pháp có là từ tâm mình biến ra, biến cái này nó nhảy ra cái này, biến cái kia nó nhảy ra cái kia, nhưng không ngờ chính vì tâm mới có tên muôn pháp. Nếu không tâm thì đâu có tên muôn pháp. Muôn pháp không có tên thì đâu thành muôn pháp. Thế nên nói tâm trùm muôn pháp là vậy. Đã trùm muôn pháp thì tâm đó rộng lớn, khắp giáp, nó hằng liễu tri nên khi ứng dụng thì biết tất cả, bởi vì nó an danh tất cả mà không biết tất cả sao được? Tất cả tên là một tâm đặt, nói một tâm, quí vị đừng hiểu là một người, tâm tôi, tâm quí vị cũng là tâm thôi, chúng ta an danh cho mọi sự vật là tâm của chúng ta, mà tâm thì đâu có hai. Muôn vật từ tâm mà có tên nên nói tất cả là một; từ tâm đó mà có tên muôn vật nên một là tất cả. Như vậy nhìn hai mặt: một là tất cả là từ tâm mà đặt muôn tên khác nhau; tất cả là một vì tất cả đều gốc từ tâm mà có.
Lại tới lui được tự do, không có gì ngăn trở, đó là Bát-nhã. Như vậy Bát-nhã là thênh thang nhưng hằng tri hằng giác, chớ không phải thênh thang như hư không rỗng, không biết gì cả. Cái thể đó, nếu tế nhị một chút là thấy rõ, nhất là khi ngồi thiền, có những phút giây không có một niệm gì, xem như tâm mình trống rỗng, nhưng khi ấy mắt vẫn thấy, tai vẫn nghe, mình vẫn biết, như vậy là hằng tri, hằng giác mà trống rỗng, không phải Bát-nhã là gì? Ai không có cái đó? Chính sống được với cái đó là trở về tâm Phật của mình. Trái lại, nếu không sống với cái đó mà sống với những buồn thương giận ghét là trở về tâm chúng sanh, tâm tạo nghiệp. Như vậy ai sống với những buồn thương giận ghét hằng ngày, đó là người sống với tâm chúng sanh, còn ai biết buông xả, sống với tâm rỗng rang hằng tri hằng giác không một niệm thương ghét chen lẫn vào, đó là sống với tâm Phật. Thật là rất gần! Nơi mình có sẵn một kho báu mà không biết dùng. Nếu người có kho báu nhưng không biết dùng, lại than nghèo than khổ thì có đáng thương không? Có mà không biết dùng rồi than trời trách đất, thật là đáng thương. Vì họ không biết dùng nên mới khổ, chúng ta thấy cái khổ đó thật đáng thương, vì vậy đức Phật mới bốn mươi chín năm thuyết pháp độ sanh, nhưng có độ chi đâu. Ngài có cho chúng ta chi đâu mà gọi là độ, Ngài chỉ cho chúng ta biết chúng ta có cái đó, sống trở về với cái đó thì hoàn toàn hết khổ, trái lại không sống với cái đó thì khổ không biết chừng nào dứt.
Này Thiện tri thức, tất cả trí Bát-nhã đều từ Tự tánh sanh, chẳng từ bên ngoài vào, chớ lầm dụng ý nên gọi là Chân tánh tự dụng.
Ngài chỉ thật là xác đáng. Ngài bảo: Tất cả trí Bát-nhã đều từ nơi Tự tánh của mình, không phải từ ngoài vào, chớ lầm dụng ý. Như có nhiều người tu cứ mong thành Phật, hoặc mong Phật đến ấn chứng, như vậy là trông ra ngoài, nhưng cái đó đâu phải từ ngoài đến, nó sẵn nơi mình, có ở đâu xa mà tìm mà cầu? Nếu tìm cầu ở ngoài đó là lầm dụng ý. Ngược lại là Chân tánh tự dụng, khéo như vậy thì Tánh chân thật của mình tự mình dùng thôi.
Một chân thì tất cả chân, tâm lượng rộng lớn không đi theo con đường nhỏ, miệng chớ trọn ngày nói Không mà trong tâm chẳng tu hạnh này, giống như người phàm tự xưng là Quốc vương, trọn không thể được, không phải là đệ tử của ta.
Có người trọn ngày nói không mà trong tâm chẳng không, tỉ dụ như đã xuất gia rồi nhưng ai làm buồn lòng một chút liền mắng chửi người, khi ấy nếu có người khác quở tại sao tu mà ác khẩu, tạo nghiệp, thì nói ác khẩu có thật không? nghiệp có thật không? Như vậy là nói không mà tâm chẳng không. Nếu không thì đâu có giận, mắng chửi người, nếu giận mắng chửi người thì tâm chưa không. Tâm chẳng không mà miệng nói không, thì không xứng đáng là đệ tử của Tổ, huống chi là của Phật. Ai lỡ có bệnh đó thì nhớ, Tổ không chấp nhận làm đệ tử của Ngài, còn đứng ngoài xa chớ chưa bước vào chùa, người như vậy là người nói rỗng không có thực hành. Thế nên chúng ta phải hiểu cho thật rõ, khi lỡ có sân si nếu có ai hỏi tại sao tu mà còn sân si, thì nói tại tôi còn dở, tại tập khí lâu đời, như vậy là người tốt. Nếu nghe hỏi tại sao sân si, liền hỏi lại sân si có thật không, thì kẻ đó đáng ăn đòn, không xứng đáng là đệ tử của Phật. Tôi giản trạch để quí vị đừng hiểu lầm, khi nghe nói như trên thì vội cho người ấy rất hay, rất hiểu đạo. Nếu còn sân si là chưa hiểu đạo và nói như thế là nói để che lỗi, kẻ đó là kẻ đáng tội. Hiểu như thế, quí vị mới thấy chỗ tu chân thật, nên Tổ ví dụ như kẻ thường dân mà xưng là Quốc vương. Có ổn không? Thế nào cũng bị ngồi khám, hoặc bị đứt đầu. Cũng như tâm thì có mà miệng nói không, có ngày phải đền tội, vì vậy Ngài bảo không phải là đệ tử của ta.
Này Thiện tri thức, sao gọi là Bát-nhã? Bát-nhã, Trung Hoa dịch là trí tuệ. Tất cả chỗ, tất cả thời, mỗi niệm không ngu, thường hành trí tuệ tức là Bát-nhã hạnh.
Ngài dạy Bát-nhã là tiếng Phạn, Trung Hoa dịch là trí tuệ. Tất cả chỗ như ở chùa, ra xóm, đến chợ..., tất cả thời là sáng trưa chiều... lúc nào cũng vậy, mỗi niệm đều không ngu. Thế nào là mỗi niệm ngu, thế nào là mỗi niệm không ngu? Tỉ dụ chúng ta đang đi trên đường, bất chợt nghe trong nhà có hai người đang cãi nhau, chúng ta dừng lại nghe xem ai phải ai quấy. Niệm dừng lại nghe ai phải ai quấy là niệm gì? Là niệm ngu, tức là chạy theo cảnh thì niệm đó gọi là niệm ngu. Trái lại nếu hằng sống với trí tuệ, không theo, không dính với bất cứ điều gì, đó là không ngu. Thường hành trí tuệ là hành cái trí không bị kẹt, bị dính nơi mọi cảnh. Đó là chỗ tôi hay nhắc quí vị. Hoặc nghe tiếng nói, hoặc thấy hình sắc liền phân biệt hay dở, tốt xấu v.v... đó là người ngu, mải đuổi theo ngoại cảnh nên làm mờ mắt Trí tuệ Bát-nhã. Niệm niệm không ngu là hằng không dấy niệm đuổi theo ngoại cảnh, lúc nào cũng hằng tỉnh, hằng giác, người được như vậy tức là đã hành Bát-nhã.
Một niệm ngu tức Bát-nhã bặt, một niệm trí tức Bát-nhã sanh.
Như vừa rồi tôi nói, nếu chúng ta thấy vật gì liền cho là đẹp, đó là niệm ngu. Ngu thì khi ấy có Bát-nhã không? Bát-nhã là thấy các pháp như huyễn, nếu thấy vật đẹp thì vật là thật nên ngu, tức mất Bát-nhã. Trái lại, vừa thấy một vật gì liền biết đó là tướng duyên hợp không thật, vì biết không thật nên tâm không dính mắc thì Bát-nhã sanh. Thế nên niệm ngu thì Bát-nhã tuyệt, niệm trí là Bát-nhã sanh. Tôi giảng cho quí vị thấy cái ngu, cái trí. Thấy người, thấy vật, duyên theo để phân biệt đẹp xấu hoặc khen chê, đó là niệm ngu; thấy người thấy vật mà khởi quán các pháp, người vật đều duyên hợp không thật, đó là niệm trí. Niệm ngu thì bị tham sân si dẫn, niệm trí thì tâm an, biết là huyễn tức nhiên tâm lặng, tức là sống với Trí tuệ Bát-nhã. Hai niệm đó, có niệm này là mất niệm kia. Niệm trí là chúng ta thắp đèn, đốt đuốc, niệm ngu là chúng ta đi trong đêm không đèn, không đuốc để rồi phải đau khổ. Quí vị thử nghiệm xem! Thấy người, thấy vật nhưng luôn luôn sống với niệm trí thì có đau khổ không? Hẳn là không. Như vậy rõ ràng khổ hay hết khổ là do mình sống với trí hay với ngu. Ngu là vô minh, nó dẫn chúng ta đi trong chốn khổ đau, trầm luân sanh tử. Còn niệm trí là trí tuệ để giác ngộ thành Phật. Như vậy sự tu hành thật là cụ thể. Nếu đối duyên, đối cảnh chúng ta luôn luôn sống với niệm trí thì chúng ta giải thoát sanh tử; trái lại đối duyên đối cảnh chúng ta sống với niệm ngu thì chúng ta luân hồi không cùng. Quí vị thử tập xem, kể từ nay ráng sống với niệm trí, làm sao trong mười hai giờ ít ra cũng được sáu giờ trí, nếu không có lời, ít ra cũng đừng lỗ. Nhưng hiện nay quí vị đã sống được mấy giờ trí? Thử kiểm lại xem! Được bao nhiêu? Trong mười hai giờ chỉ sống được một giờ rưỡi, chưa đủ cái lẻ nữa thì biết rằng đó là ánh sáng đom đóm. Đêm ba mươi có ánh sáng đom đóm nên khó tránh khỏi hầm hố. Vì thế chúng ta tu là hiểu cho rõ lời Phật Tổ dạy và hiểu cho rõ điều mình đang hành, biết mình như thế nào, không cần phải tìm hỏi mình có căn tu hay không. Tóm lại Tổ dạy rất rõ ràng: một niệm ngu thì Bát-nhã bặt, một niệm trí thì Bát-nhã sanh, một giờ chúng ta ngu thì giờ đó không có Bát-nhã, giờ đó là vô minh; còn một giờ chúng ta trí thì đó là giờ Bát-nhã, giờ sáng suốt. Như vậy người nào sống trong tỉnh nhiều hơn mê thì bảo đảm ngày ra đi sẽ đi vào con đường của Thánh Hiền, còn người nào sống với mê nhiều hơn trí, chắc chắn người đó sẽ đi vào lục đạo, hoặc ba đường trên thiên, nhân, a-tu-la, hoặc ba đường dưới địa ngục, ngạ quỉ, súc sanh. Quí vị hãy tự xét là biết, mình tu mình phải tự giác, tự tri, không cần phải hỏi ai cả. Lại ngu có nghĩa là theo cảnh, trí có nghĩa là lìa cảnh. Một niệm tâm theo cảnh là ngu, một niệm tâm lìa cảnh là trí. Trong bốn oai nghi hằng lìa cảnh đó là hằng sống với Trí tuệ Bát-nhã.
Người đời ngu mê không thấy Bát-nhã, miệng nói Bát-nhã mà trong tâm thường ngu.
Miệng nói vật này không thật, vật kia không thật, nhưng gặp vật gì cũng duyên theo, đó là nói Bát-nhã mà trong tâm thường ngu. Có người khi lý luận nói cái gì cũng không thật, nói nghe thật hay, nhưng gặp cảnh gặp duyên thì đuổi theo, đó là người ngu, miệng nói Bát-nhã mà tâm thường ngu.
Thường tự nói ta tu Bát-nhã, niệm niệm nói không nhưng không biết được chân không.
Miệng luôn luôn nói không nhưng thật không biết được Chân không. Chân không là không có một niệm, một pháp nào chứa chấp ở trong, chỉ có cái hằng tri hằng giác. Như vậy quí vị từ nay vừa bước đến cổng “Chân Không” phải nhớ chỗ đó, biết mình phải sống với Chân không.
Bát-nhã không có hình tướng, tâm trí tuệ ấy vậy.
Trí tuệ Bát-nhã không có tướng mạo, nó là tâm trí tuệ tức là cái tâm hằng sáng hằng giác chớ không có gì lạ, nên nói Bát-nhã chỉ là tâm trí tuệ hằng giác của chúng ta.
Nếu khởi hiểu như thế tức gọi là Bát-nhã trí.
Thường chữ trí tuệ là dịch hai chữ Bát-nhã. Tại sao lại còn nói Bát-nhã trí? Nếu nói trí tuệ e có sự lầm lẫn vì người đời nếu khôn ngoan một chút thì nói là người có trí tuệ, thành ra trí tuệ của người đời là trí tuệ sắp đặt công ăn việc làm hoặc là trí tuệ tính toán lấn hiếp người... Trí tuệ Bát-nhã là trí tuệ thấy rõ cái chân thật của Tự tâm, biết rõ Tự tâm mình cái nào là hư giả, cái nào là chân thật, biết rõ Tự tánh của các pháp, biết các pháp do duyên hợp không thật, tánh là không. Vì thế để tránh sự hiểu lầm, chữ Bát-nhã phải dịch đủ là Trí tuệ Bát-nhã.


GIẢNG 2
Sao gọi là Ba-la-mật? Đây là lời nói của Ấn Độ, Trung Hoa dịch là đến bờ kia, giải nghĩa là lìa sanh diệt.
Tôi nhắc lại một lần nữa cho quí vị nhớ, những chữ Phạn mà chúng ta thường tụng: “Ma-ha Bát-nhã Ba-la-mật”. Ma-ha là lớn, là thênh thang, chỉ cho Tâm thể chúng ta khi không còn một niệm nào dấy khởi. Bát-nhã là trí tuệ, cái trí tuệ không bị các pháp làm nhiễm, làm chướng tức là đối với tất cả pháp luôn hằng giác hằng tri nhưng không dính mắc. Ba-la-mật là đến bờ kia, bờ kia là bờ Niết-bàn. Đến bờ kia là đến được bờ Niết-bàn. Bờ Niết-bàn là bờ không sanh diệt, thế nên nói bên này là bờ sanh tử, bên kia là bờ Niết-bàn. Sanh tử là sanh diệt. Niết-bàn là không sanh diệt, nên đến bờ kia dịch nghĩa là lìa được sự sanh diệt.
Chấp cảnh thì sanh diệt khởi như nước có sóng mòi, tức gọi là bờ này, lìa cảnh thì không sanh diệt như nước thường thông lưu, ấy gọi là bờ kia, nên gọi là Ba-la-mật.
Ngài chỉ cho chúng ta phương pháp tu thật là rõ. Thế nào là sanh diệt? Thế nào là lìa sanh diệt? Vừa chấp cảnh thì tâm sanh diệt khởi. Chấp cảnh là thế nào? Tỉ dụ thấy người liền chấp người đẹp xấu, hay dở, phải quấy v.v... đó là chấp cảnh; hoặc thấy vật cũng chấp là đẹp xấu... đó cũng là chấp cảnh. Vừa chấp đẹp xấu thì niệm thương ghét dấy lên, gọi là tâm sanh diệt. Thế nên nói chấp cảnh thì sanh diệt khởi, ví dụ như mặt nước bằng mà có gió. Chấp cảnh dụ như gió. Mặt biển nguyên bằng phẳng, vừa có gió thổi là sóng lớn, sóng nhỏ nổi lên. Sóng lớn sóng nhỏ nổi lên dụ cho sanh diệt. Vừa chấp cảnh thì tâm sanh diệt khởi. Trái lại lìa cảnh thì không sanh diệt, như nước thường thông lưu, lìa cảnh tức là thấy cảnh, thấy người, thấy vật nhưng không có niệm phân tích đẹp xấu... Thấy nghe nhưng không bị dính gọi là lìa. Lìa cảnh thì tâm sanh diệt không khởi, dụ như nước không có sóng, nhưng vẫn hằng trôi, hằng chảy. Cũng như vậy, chúng ta không chấp cảnh, tâm sanh diệt không khởi, nhưng hằng tri giác chớ không phải không tri không giác, đó gọi là “Ba-la-mật”.
Tóm lại, “Ma-ha” là lớn, “Bát-nhã” là trí tuệ. Tâm thể hay Tự tánh của chúng ta thênh thang, không tướng mạo, nhưng hằng tri hằng giác không dính với cảnh gọi là trí tuệ, là Bát-nhã. Ba-la-mật là đến chỗ không sanh diệt. Tại sao gọi là không sanh không diệt? Bởi vì vừa dính với cảnh thì tâm niệm sanh diệt dấy lên, còn đối cảnh mà không dính đó là lìa được sanh diệt. “Ma-ha Bát-nhã Ba-la-mật” từ đâu mà có? Có sẵn nơi chúng ta. Do đâu mà được? Do biết lìa cảnh, đối cảnh không chấp. Nếu người nào đối cảnh mà chấp đó là mất. Vậy mỗi khi chúng ta khởi xướng “Ma-ha Bát-nhã Ba-la-mật” đừng lắng nghe lời người này hay, lời người kia dở, nên nhớ rõ rằng “Ma-ha Bát-nhã Ba-la-mật” là cái để mình hằng sống, đó là mình biết tu.
Này Thiện tri thức, người mê miệng tụng, chính khi đang tụng mà có vọng có quấy; niệm niệm nếu hành Bát-nhã, ấy gọi là Chân tánh. Người ngộ được pháp này, ấy là pháp Bát-nhã; người tu hạnh này, ấy là hạnh Bát-nhã. Không tu tức là phàm, một niệm tu hành tự thân đồng với Phật.
Giống như chúng ta hiện nay, chính trong khi đang tụng mà đã có vọng tưởng, có những niệm sai quấy. Ngài nói thẳng người không tu theo Bát-nhã là phàm, còn một niệm tu hành thì một niệm đó đồng với Phật. Phật là giác, một niệm tu Bát-nhã tức là một niệm giác, một niệm giác tức là đồng với Phật, đồng một niệm chớ không phải đồng suốt đời. Tổ muốn phá mặc cảm của chúng ta. Chúng ta cho Phật với mình cách biệt rất xa nên Ngài muốn chỉ Phật với chúng ta không cách xa, chỉ mê là chúng sanh, ngộ là Phật. Nhưng mê ngộ chia nhiều phần, ngộ toàn phần hay ngộ một cách viên mãn, khác với ngộ từng ly từng tí. Trong một giờ đồng hồ tức trong sáu mươi phút, chúng ta không được trọn sáu mươi phút nhưng được một phút bằng với Phật thì cũng bằng được một phút. Nếu hiện đời chúng ta chưa hẳn là giác, nhưng được một niệm giác thì niệm đó chúng ta cũng bằng với Phật. Như vậy chúng ta thấy tại chúng ta không ưng làm Phật, chớ Phật đâu có cấm chúng ta làm Phật. Có ai ngăn trở quí vị làm Phật không? Không một ai, kể cả Phật cũng không ngăn trở, nên Ngài mới nói Ngài là “Vô thượng giác” tức là người giác mà không ai trên, chớ không phải không ai bằng, nếu ai ưng giác như Ngài thì bằng Ngài!
Này Thiện tri thức, phàm phu tức Phật, phiền não tức Bồ-đề. Niệm trước mê tức phàm phu, niệm sau ngộ tức Phật; niệm trước chấp cảnh tức phiền não, niệm sau lìa cảnh tức Bồ-đề.
Thật là hay! Lục Tổ dạy thẳng tắt vô cùng. Ngài chỉ cho chúng ta thấy phàm phu tức Phật, phiền não tức Bồ-đề. Thế nào là tức? Ngài bảo: niệm trước mê tức là phàm phu, niệm sau ngộ tức là Phật. Tỉ dụ nhìn bình bông, vừa nhìn liền phân biệt nhánh trắc đẹp, bông cúc xấu v.v... vừa có niệm phân biệt, đó là mê, nhưng liền tỉnh giác biết dù đẹp xấu cũng là huyễn hóa. Như vậy niệm trước mê là phàm phu, niệm sau ngộ là Phật. Có người thứ hai chen vào làm Phật không? Cũng chỉ là mình, nhưng niệm trước mê, đó là phàm phu, chuyển niệm sau ngộ là thành Phật. Như vậy đâu có Phật ngoài phàm phu, phàm phu ngoài Phật, nên nói phàm phu tức là Phật. Thí dụ thứ hai, như có một món quí kim rơi ngoài đường hay ở trong nhà một người nào, vừa thấy món quí kim chúng ta dấy niệm nó có giá trị, vừa dấy niệm tham, liền biết đó là sai quấy, vì người biết đạo lý không được có niệm tham. Vậy niệm trước là niệm gì? Niệm sau là niệm gì? Tất cả những thay đổi đó đâu có người thứ hai chen vào. Chính ngay người phàm phu trước đổi thành người giác sau. Người mê trước đổi thành người giác sau, không có một người mê riêng, một người giác riêng, như vậy không phải “tức” là gì? Như khi còn ở trong hoàng cung Thái tử Tất-đạt-đa là Phật chưa? Nhưng khi xuất gia, Ngài tu thành Phật. Cũng là Ngài, con người phàm phu ở trong hoàng cung rồi thành Phật chớ không phải ai khác. Đó là nói xa, còn Lục Tổ nói thẳng trên niệm, niệm trước mê là phàm phu, niệm sau ngộ là Phật. Chúng ta thấy phàm phu khác, Phật khác là tự phỉ báng mình, phỉ báng chánh pháp. Rõ ràng mình với Phật không có khác, chỉ khác chỗ mê ngộ, mà mê ngộ do nơi mình, niệm trước mê là phàm, niệm sau giác là Phật!
“Niệm trước chấp cảnh tức phiền não, niệm sau lìa cảnh tức Bồ-đề.” Thí dụ nghe người nào nói một lời trái tai, vừa chấp đó là lời ngang ngược trái tai, muốn nổi sân, nhưng liền biết lời nói giả dối không thật thì không giận. Niệm trước vừa chấp lời nói trái tai liền nổi giận, gọi là chấp cảnh tức phiền não sanh; niệm sau biết lời nói không thật, nên không chấp liền lìa cảnh, lìa cảnh đó là Bồ-đề. Như vậy tức phiền não là Bồ-đề đâu có Bồ-đề ngoài phiền não. Nếu tìm Bồ-đề ngoài phiền não thì không cần tu, vì nó ở ngoài, tu là ngay niệm mê đổi thành niệm giác, ngay phiền não biến thành Bồ-đề. Có nhiều người nói phiền não là phiền não, tại sao nói phiền não tức Bồ-đề? Họ cứ nghĩ phiền não là riêng, Bồ-đề là riêng, nhất là những vị chưa thông kinh Đại thừa hay chấp phiền não khác, Bồ-đề khác, nhưng thật ra ngay phiền não mà tỉnh lại tức là Bồ-đề. Mê thì phiền não, tỉnh là Bồ-đề, chúng ta thấy thực tế vô cùng. Phiền não tức Bồ-đề, phàm phu tức Phật là như thế. Như vậy ai dám khi ai không? Ngày nay họ là phàm phu, ngày mai họ giác thành Phật; giờ này họ sân là phàm phu, chốc nữa họ tỉnh cũng là Phật. Đừng nghĩ ta giác hơn người, vì khi người tỉnh giác người cũng bằng ta. Trên thế gian này không ai hơn ai cả. Ngay phàm phu tức là Phật, ngay phiền não tức là Bồ-đề. Người có nhiều phiền não, vì cố chấp nên những gì đến với họ đều biến thành phiền não; đến khi họ tỉnh, họ xả được cái chấp đó tức nhiên thành Bồ-đề. Không có Bồ-đề ngoài phiền não, không có Phật ngoài chúng sanh.
Này Thiện tri thức, Ma-ha Bát-nhã Ba-la-mật tối tôn, tối thượng, tối đệ nhất, không trụ, không qua cũng không lại, chư Phật ba đời từ trong đó mà ra. Phải dùng đại trí tuệ này đập phá ngũ uẩn, phiền não, trần lao, tu hành như đây quyết định thành Phật đạo, biến tam độc thành giới định tuệ.
Tổ ca ngợi Bát-nhã vô cùng. Ngài bảo Bát-nhã là tối tôn, tối thượng, tối đệ nhất, Bát-nhã là không trụ, không qua, không lại, nghĩa là nó không có những tướng qua lại, trụ trước gì cả. Tất cả chư Phật ba đời cũng từ Bát-nhã mà ra. Muốn giác ngộ làm Phật phải từ trí tuệ mà được. Không ai giác ngộ ngoài trí tuệ, nên nói ba đời chư Phật đều từ đó mà ra. Như vậy phải dùng đại trí tuệ này đập phá phiền não trần lao ngay trong thân ngũ uẩn. Tu hành như vậy thì quyết định thành Phật đạo không nghi và người đó đã chuyển tam độc thành giới định tuệ. Ngay nơi ba độc tham sân si chúng ta chuyển thành giới định tuệ, đó là chỗ chân chánh tu hành.
Này Thiện tri thức, pháp môn của tôi đây từ một Bát-nhã phát sanh tám muôn bốn ngàn trí tuệ. Vì cớ sao? Vì người đời có tám muôn bốn ngàn trần lao, nếu không có trần lao thì trí tuệ thường hiện chẳng lìa Tự tánh. Người ngộ pháp này tức là vô niệm, vô ức, vô trước, chẳng khởi cuống vọng, dùng tánh Chân như của mình, lấy trí tuệ quán chiếu, đối với tất cả pháp không thủ không xả tức là thấy tánh thành Phật đạo.
Đến đây Ngài dạy từ một môn Bát-nhã này sanh ra tám muôn bốn ngàn trí tuệ. Tại sao đến tám muôn bốn ngàn trí tuệ? Vì chúng sanh có đến tám muôn bốn ngàn trần lao, nên người biết tu thì chuyển tám muôn bốn ngàn trần lao thành tám muôn bốn ngàn trí tuệ. Tôi ví dụ như chúng ta nghe lời nói trái tai, chấp là lời nói nặng liền giận, khi vừa giận liền thức tỉnh biết tiếng nói không thật nên không giận, như vậy chúng ta dùng một trí tuệ phá một trần lao. Trên thế gian này, có bao nhiêu thứ để chúng ta phiền não? Vật nào đẹp thì muốn lấy, đó là tham, vật nào xấu thì ghét muốn quăng bỏ, đó là sân v.v... đủ cả tham sân si...! Nếu gặp bất cứ việc gì, chúng ta đều dùng Trí tuệ Bát-nhã để phá dẹp, không cho dính mắc, như vậy có bao nhiêu phiền não tức có bấy nhiêu trí tuệ. Thế nên tám muôn bốn ngàn trần lao trở thành tám muôn bốn ngàn trí tuệ. Như vậy để biết rằng trí tuệ không riêng có, vì đối trần lao mà lập. Do có trần lao nên trí tuệ không thường hiện, nay các trần lao hết thì trí tuệ hiện. Trí tuệ hiện là ngay nơi Tự tánh mà hiện, nên nói chẳng lìa Tự tánh. Người ngộ pháp này tức là vô niệm. Vô niệm là không dấy khởi niệm, vô ức là không nhớ tưởng, vô trước là không dính mắc, chẳng khởi cuống vọng là không khởi hư dối. Dùng tánh Chân như của mình, lấy trí tuệ quán chiếu, đối tất cả pháp mình không khởi thủ xả, đó là thấy tánh thành Phật đạo. Nghĩa là chúng ta không dấy niệm, không nhớ tưởng, không chấp trước cũng không lừa dối, như vậy sống với Tự tánh chân thật của mình, hằng dùng trí tuệ quán chiếu để không lầm, thì đối với tất cả pháp không còn thủ xả tức lìa hai bên. Người được như thế là thấy tánh thành Phật.
Này Thiện tri thức, nếu muốn vào pháp giới thậm thâm và Bát-nhã tam-muội thì phải tu Bát-nhã hạnh, phải trì tụng kinh Kim Cang Bát-nhã tức được thấy tánh, nên biết kinh này công đức vô lượng vô biên, trong kinh đã khen ngợi rõ ràng không thể nói đầy đủ được. Pháp môn này là Tối thượng thừa, vì những người đại trí mà nói, vì những người thượng căn mà nói. Những người tiểu căn tiểu trí nghe pháp này tâm sanh không tin. Vì cớ sao? Ví như có một trận mưa lớn khắp cả cõi nước, thành ấp chợ búa đều bị trôi dạt cũng như trôi những lá táo. Nếu trận mưa lớn đó mưa nơi biển cả thì không tăng không giảm. Như người Đại thừa hoặc người Tối thượng thừa nghe kinh Kim Cang thì tâm khai ngộ, thế nên biết Bản tánh họ tự có trí Bát-nhã, tự dùng trí tuệ thường quán chiếu nên không nhờ văn tự. Thí như nước mưa không phải từ trời có, nguyên là từ rồng mà dấy lên khiến cho tất cả chúng sanh, tất cả cỏ cây, hữu tình vô tình thảy đều được đượm nhuần. Trăm sông các dòng đều chảy vào biển cả hợp thành một thể, Trí tuệ Bát-nhã nơi Bản tánh chúng sanh cũng lại như thế.
Tức là mọi người chúng ta đều có trí tuệ Bát-nhã sẵn trong Tự tánh của mình như là tất cả dòng sông đều chảy về biển chớ không có khác.
Này Thiện tri thức, người tiểu căn nghe pháp môn đốn giáo này, ví như là cỏ cây gốc rễ nhỏ, nếu bị mưa to thì đều ngả nghiêng không thể nào tăng trưởng được. Người tiểu căn cũng lại như thế, vốn có Trí tuệ Bát-nhã cùng với người đại trí không sai biệt, nhân sao nghe pháp không thể khai ngộ? Vì do tà kiến chướng nặng, cội gốc phiền não sâu, ví như đám mây lớn che kín mặt trời, không có gió thổi mạnh thì ánh sáng mặt trời không hiện. Trí Bát-nhã cũng không có lớn nhỏ, vì tất cả chúng sanh tự tâm mê ngộ không đồng, tâm mê bên ngoài thấy có tu hành tìm Phật, chưa ngộ được Tự tánh tức là tiểu căn. Nếu khai ngộ đốn giáo không thể tu ở bên ngoài, chỉ nơi tâm mình thường khởi chánh kiến, phiền não trần lao thường không bị nhiễm tức là thấy tánh.
Trong đoạn trên Ngài nói có người tiểu căn, người đại căn, người tiểu trí, người đại trí. Tại sao có tiểu trí, đại trí, tiểu căn, đại căn? Trên tánh Bát-nhã không có sai biệt, nhưng người nghe pháp liền đốn ngộ thì gọi là đại căn, còn người nghe nhưng không đốn ngộ nên gọi là tiểu trí. Sở dĩ nghe Bát-nhã mà không ngộ, không hiểu là vì:
- Một là tà kiến của họ sâu nặng, chấp tà kiến là chấp lệch lạc, nghiêng bên có hoặc nghiêng bên không quá nặng.
- Hai là gốc phiền não của họ sâu dày, họ hay sân si, đủ các việc lôi thôi...
Ngài thí dụ như có một đám mây đen kịt bao phủ bầu trời vào giữa trưa che kín mặt trời, chúng ta thấy ánh sáng mặt trời mất tiêu, ánh sáng mất là tại mặt trời không có ánh sáng hay tại cái gì? Mặt trời lúc nào cũng tỏa ánh sáng đầy đủ và công bằng. Nhưng khi mây dày đen quá thì ánh sáng phải chịu khuất. Khi không thấy ánh sáng là lỗi tại mặt trời hay lỗi tại mây? Tất cả mọi người ai cũng có Trí tuệ Bát-nhã như là giữa trưa nhất định có mặt trời vậy, nhưng có người nghe pháp liền ngộ, có người nghe mà không ngộ là tại sao? Giữa trưa mà không mây, khi người ta chỉ mặt trời, nhìn lên liền thấy. Trái lại mây dày quá, dù chỉ mặt trời cũng không thấy, chỉ thấy bầu trời đen kịt. Đối với trí tuệ của Phật cũng thế, Ngài dùng trí tuệ đó giảng dạy chúng ta hiểu chỗ ngộ, chỗ sở đắc của Ngài để chúng ta theo đó tu hành. Nếu nghe nhưng không hiểu gì cả là tại phiền não của chúng ta quá nhiều, quá sâu; nếu người nào phiền não ít, mỏng thì nghe liền hiểu, mà hiểu thì tu được. Như thế lỗi không phải tại pháp mà lỗi tại người, pháp thì bình đẳng nhưng tại người phiền não sâu hay cạn. Biết như vậy, chúng ta thấy nếu căn cơ chúng ta kém, phiền não dày, chúng ta phải nỗ lực sao cho phiền não tan và căn cơ được tăng trưởng, chớ đừng tưởng thật có người đại trí và người tiểu trí, vì trí Bát-nhã là bình đẳng, nhưng do các chủng tử tà kiến và chủng tử phiền não nhiều ít mà thành sai biệt.
Này Thiện tri thức, trong ngoài không trụ, đi lại tự do, hay trừ tâm chấp, thông đạt không ngại, hay tu hạnh này cùng kinh Bát-nhã vốn không sai biệt.
Trong đoạn này Lục Tổ dạy chúng ta tu. Trong ngoài không trụ là không trụ trong không trụ ngoài, tức là không chấp trong không chấp ngoài. Đi lại tự do là trong mọi hoạt động chúng ta không bị chướng ngăn. Hay trừ tâm chấp, tâm chấp là thế nào? Tôi nói một ví dụ nhỏ cho quí vị thấy, như có người nhìn bình bông, phân tích như thế nào đó rồi kết luận bình bông đẹp, nhưng có người ngồi bên cạnh bảo xấu quá, đâu có đẹp! Khi đó người ấy nổi sân, tại sao lại nổi sân? Vì chấp lời của họ là chân lý, lời người kia không phải chân lý, họ nói đúng, người kia nói sai... Thế nên tất cả các chấp là gốc của phiền não. Trái lại nếu chúng ta thấy đẹp, người khác thấy không đẹp chúng ta biết đó là do cái thấy của họ khác mình, thì không còn tranh chấp. Tỉ dụ chúng ta nói cái này có, người kia nói không, chúng ta nói: tôi thấy có, còn huynh thấy không là cái thấy của huynh. Trái lại nếu chúng ta nói có, người khác nói không, chúng ta nổi giận, đó là chấp. Vậy tất cả phiền não đều gốc từ tâm chấp mà ra. Quí vị thấy có ai không chấp? Nếu người nào không chấp thì người đó không nổi giận, nếu có giận là có chấp! Thí dụ gần nhất như thầy giáo hay cô giáo dạy học trò, bảo chúng nó giờ nào học thì học, giờ nào nghỉ thì cũng ngồi chơi có trật tự đừng la to. Nhưng khi chơi nó hứng la om sòm, khi ấy thầy cô giận muốn phạt nó. Như vậy là mình không tâm lý, lúc dặn thì chúng nhớ, khi chơi thì chúng quên... vì mình chấp việc chúng không nhớ lời dặn nên nổi giận. Quí vị nhớ con cái ở nhà cũng vậy, khi chúng ta dạy nó, thật ra chúng nó biết, nhớ, nhưng khi gặp cảnh chúng nó quên... Cũng như chúng ta khi nghe kinh thì nhớ, gặp cảnh thì quên, chúng ta quên theo người lớn, chúng nó quên theo con nít! Nếu giận chúng nó thì đúng hơn chúng ta phải giận chúng ta. Nếu không giận mình mà giận chúng nó là mình hơi hẹp lượng đó. Hiểu như vậy, quí vị mới thấy trong cuộc sống này do chấp mà thành hẹp lượng rồi sân hận... đủ các phiền não. Vì vậy chấp là một cái họa, từ đó sanh ra bao nhiêu thứ bệnh! Khi phá chấp rồi thì tâm hồn chúng ta thênh thang vô cùng. Chấp có, chấp không, chấp phải, chấp quấy... tất cả chấp đều là gốc phiền não. Thế nên phá được tâm chấp rồi thì trí được thông đạt vô ngại. Người hay tu được hạnh đó gọi là tu Bát-nhã.
Này Thiện tri thức, tất cả kinh điển và các văn tự, Đại thừa, Tiểu thừa, mười hai bộ kinh đều nhân người mà an trí, nhân tánh trí tuệ mới hay dựng lập. Nếu không có người đời thì tất cả muôn pháp vốn tự chẳng có, thế nên biết muôn pháp vốn tự nhân nơi người mà dựng lập, tất cả kinh sách nhân người mà nói có; nhân vì trong người kia có ngu và có trí, người ngu là tiểu nhân, người trí là đại nhân, người ngu hỏi nơi người trí, người trí vì người ngu mà nói pháp, người ngu bỗng nhiên ngộ hiểu, tâm được khai tức cùng với người trí không có khác.
Chúng tôi giải thích cho quí vị thấy Lục Tổ dạy rất là thực tế. Ngài bảo tất cả kinh điển Phật lập ra, trong đó chia ra Đại thừa, Tiểu thừa, cả mười hai bộ kinh đều nhân nơi người mà lập. Tại sao? Vì người đời căn tánh bất đồng, có kẻ thấp người cao nên kinh Phật dạy có khi thấp, có khi cao. Nói thấp gọi là nói cho Tiểu thừa, nói cao gọi là nói cho Đại thừa. Như vậy kinh điển có sai biệt là nhân trí tuệ của con người, người thấp thì phải nói theo chỗ thấp, người cao phải giải thích theo chỗ cao. Tất cả muôn pháp trên thế gian này vốn không có, nhưng hiện có là do nơi người. Có người mới có muôn pháp. Tại sao? Như tôi thường nhắc quí vị, nếu không có tâm trí của con người thì lấy cái gì đặt tên đây là đồng hồ, kia là bình bông, đó là cái bàn v.v.... Như vậy tất cả các tên sai biệt của muôn pháp gốc từ nơi người mà lập. Thế nên biết rằng từ kinh điển đến vạn vật có các tên sai biệt, đều gốc từ tâm trí sai biệt của con người, chớ không phải ngẫu nhiên. Như vậy không phải đức Phật muốn nói nhiều thứ, sở dĩ Ngài phải nói nhiều là do trình độ sai biệt của con người; cũng như tất cả sự vật ở thế gian không phải có nhiều thứ nhưng có nhiều thứ là tại người đặt. Người ta đặt ra thứ này, thứ kia, mỗi thứ mỗi tên. Tỉ dụ như tất cả chúng ta, nếu cha mẹ không đặt tên mình thì đến đây gặp nhau chỉ cười chớ không biết ai tên gì mà gọi. Nay có cả trăm tên khác nhau là tại sao? Tại vọng thức của cha mẹ chúng ta an bày người này tên A, người kia tên B v.v... rồi chúng ta thấy có cả trăm tên. Sự thật nếu không có đặt tên thì thấy mặt nhau là thấy chớ không biết tên gì, nếu không tên thì đâu thành người này người kia... tất cả chỉ có tên “người”. Tóm lại muôn pháp nhân người mà lập là vì nhân nơi tâm trí của con người mà đặt tên thành ra muôn pháp, chớ sự thật muôn pháp không có tên, thành tên là từ nơi người.
Ngài lại giải thích về người ngu và người trí. Người ngu là họ chưa hiểu, chưa thấy được đạo. Người trí là đã hiểu, đã thấy được đạo. Như vậy người chưa hiểu, chưa thấy đối với người đã hiểu, đã thấy thì gọi là người ngu, còn người đã hiểu, đã thấy gọi là người trí. Nhưng cái ngu, trí đó có cố định hay không? Giả sử ông A hiểu, ông B chưa hiểu, đối với chỗ hiểu và chưa hiểu thì ông A gọi là trí, ông B gọi là ngu. Nhưng nay ông B hỏi, ông A nói cho ông B hiểu bằng ông A thì hai người ai ngu ai trí? Cả hai đều trí! Như vậy ngu trí cũng không cố định. Chúng ta thường tự cao nghĩ rằng ta là trí, người khác là ngu, tưởng ngu trí là thật. Đối với Tổ không phải vậy. Khi chưa biết gọi là ngu, biết rồi cũng là trí. Thí dụ một đứa bé khi mới vào học lớp một, nó thấy thầy giáo, cô giáo là trí, còn nó là ngu. Nhưng nếu nó học đến mười mấy năm sau, khi ấy lớp nó học hoặc bằng hoặc trên thầy giáo, cô giáo nó, như vậy nó đâu còn ngu nữa. Thế nên trí, ngu đâu có cố định, nhưng chúng ta có tật thấy bất cứ người nào đều cố định là khôn hoặc là dại. Tóm lại ngu trí chẳng qua là biết và chưa biết; biết thì gọi là trí, chưa biết gọi là ngu, khi người chưa biết mà biết được rồi thì họ cũng là trí... Từ đó chúng ta suy ra, chúng sanh với Phật có khác nhau không? Có cố định chúng sanh là chúng sanh, Phật là Phật hay không? Nếu chúng ta hiểu ngu và trí thì chúng sanh với Phật cũng như vậy. Nay chúng ta chưa giác, chúng ta là chúng sanh, còn Phật đã giác thì Phật là Phật. Mai kia theo đường lối Phật dạy, chúng ta giác ngộ như Phật thì khi ấy chúng ta cũng ngang với Phật. Như vậy chúng ta không có mặc cảm là mình phải làm chúng sanh kiếp kiếp đời đời, mà chỉ có mặc cảm là mình không chịu giác. Nếu ngày nào tất cả chúng ta đều giác thì đương nhiên chúng ta như Phật. Vậy phàm phu và Phật không có hai, hai là vì có mê ngộ. Nếu chúng ta bỏ mê và ngộ như Phật, khi ấy mình với Phật là đồng, không còn hai nữa. Từ nghĩa ngu và trí đến nghĩa mê giác, chúng ta thấy giống như nhau. Không có một pháp cố định mà chúng ta lầm tưởng là cố định rồi tự khinh mình, đó là điều dở. Thế nên Lục Tổ dạy tiếp:
Này Thiện tri thức, chẳng ngộ tức Phật là chúng sanh, khi một niệm ngộ, chúng sanh là Phật.
Khi chưa ngộ tức Phật là chúng sanh, tại sao? Nơi mình có Phật sẵn nhưng mình chưa thấy nên khi ấy ông Phật đó làm chúng sanh; đến khi mình thấy thì thế nào? Thì chúng sanh đó nay biến thành Phật. Thế nên nói một niệm ngộ chúng sanh là Phật. Như vậy giữa mình và Phật không cách biệt bao xa. Theo chúng ta học thì từ phàm phu lên đến Phật phải trải qua bao nhiêu số kiếp xa thật là xa. Còn Tổ nói thì quá gần, nghĩa là khi chưa ngộ thì Phật là chúng sanh, còn một niệm ngộ thì chúng sanh là Phật. Như vậy sở dĩ có chúng sanh, có Phật là tại mê với ngộ, chớ không phải riêng có một cái cố định là chúng sanh, cố định là Phật. Đó là điểm then chốt.
Thế nên biết muôn pháp trọn ở nơi Tự tâm, sao chẳng từ trong Tự tâm liền thấy được Chân như Bản tánh?
Biết rằng muôn pháp đều từ nơi Tự tâm, tại sao chúng ta không ngay nơi Tự tâm chóng thấy được Chân như, lại đi tìm Phật ở đâu cho xa. Mê thì Phật là chúng sanh, ngộ thì chúng sanh là Phật, như vậy thành Phật là thành ở trong Tự tâm. Mê ngộ là tâm, vậy tại sao không đào xới ngay trong tâm mình để thành Phật, lại chạy đi cầu ở chỗ nào làm chi? Có cần đi lên núi ông Cấm hay Ngũ Đài Sơn v.v... hay là đi tới những núi thật xa, thật cao tìm chỗ thanh tịnh để tìm Phật không? Nếu biết thì ngồi ở giữa chợ cũng có Phật. Vì tâm mình là Phật thì ngay trong tâm, nếu biết chuyển đương nhiên chúng sanh trở thành Phật, nếu không biết chuyển tức nhiên Phật làm chúng sanh. Thế nên Lục Tổ cố dạy chúng ta muốn thành Phật thì chuyển ngay Tự tâm mình, đừng tìm kiếm nơi nào khác, tìm nơi khác là lầm! Vì thế Ngài bảo: Tất cả đều trọn nơi tâm mình, tại sao không ngay trong tâm mình chóng thấy Chân như Bản tánh?
Kinh Bồ Tát Giới nói: Bản tánh của ta nguyên tự thanh tịnh, nếu biết được Tự tâm, thấy tánh đều thành Phật đạo. Kinh Tịnh Danh nói: Liền khi đó bỗng hoát nhiên được Bản tâm.
Tóm lại, trong đoạn này Lục Tổ muốn chỉ chúng ta rõ rằng, thành Phật hay thành chúng sanh là gốc nơi Tự tâm mê hay Tự tâm ngộ. Tâm mê là chúng sanh, tâm ngộ là Phật, nay chúng ta tu, muốn thành Phật phải nhắm vào chỗ nào mà tu? Muốn chuyển chúng sanh thành Phật phải chuyển từ đâu? Từ ngay nơi tâm chớ không còn lối nào khác! Như vậy chúng ta không thể nghe nói ông Phật hiện ở trên núi Cấm rồi nhất bộ nhất bái đến lạy để Ngài chứng minh cho mình được thành Phật. Chúng ta phải ngay nơi tâm mình khéo chuyển mê thành ngộ thì đó là Phật. Chúng ta phải đào xới ngay nơi Bản tâm chớ đừng tìm kiếm ở đâu xa. Đây là gốc của sự tu hành.
Này Thiện tri thức, xưa ta ở nơi Ngũ Tổ Nhẫn, một phen nghe liền được ngộ, chóng thấy Chân như Bản tánh, nên đem giáo pháp này lưu hành khiến cho người học đạo chóng ngộ được Bồ-đề. Mỗi người tự quán nơi tâm, tự thấy Bản tánh, nếu tự chẳng ngộ phải tìm những bậc Đại thiện tri thức, người hiểu được giáo pháp Tối thượng thừa, chỉ thẳng con đường chánh, ấy là Thiện tri thức, có nhân duyên lớn, gọi là hóa đạo khiến được thấy tánh.
Ngài nhắc lại, ngày xưa khi nghe được Ngũ Tổ nói một câu, Ngài liền ngộ đạo. Khi ngộ đạo, Ngài đem giáo pháp đó chỉ dạy lại cho người học sau này chóng thấy được Bồ-đề, chóng ngộ được Bản tánh. Nay người nào nghe nhưng chưa ngộ thì nên tìm Thiện tri thức. Thiện tri thức là ai? Người hiểu được pháp Tối thượng thừa, biết chỉ thẳng con đường chánh, đó là Thiện tri thức. Có nhiều người nói Phật Tổ dạy học đạo phải nhờ Thiện tri thức hướng dẫn, nhưng người nào là Thiện tri thức? Tùy theo pháp môn, nếu Thiền tông thì Tổ dạy: Thiện tri thức là người hiểu được pháp Tối thượng thừa và người đó chỉ thẳng con đường chánh cho mình đi. Có nhân duyên lớn là gì? Tức là hóa đạo khiến cho người được thấy tánh.
Tất cả pháp lành nhân nơi Thiện tri thức mà hay phát khởi. Ba đời chư Phật, mười hai bộ kinh, ở trong tánh của người vốn tự có đủ, không có thể tự ngộ thì phải cầu Thiện tri thức chỉ dạy mới thấy. Nếu tự mình ngộ thì không nhờ cầu bên ngoài, nếu một bề chấp, bảo rằng phải nhờ Thiện tri thức khác, mong được giải thoát thì không có lẽ phải.
Đây là chỗ lầm lẫn của một số người tu. Ngài nói: Giáo pháp Tối thượng thừa này được Phật Tổ chỉ dạy, nếu ngay nơi đó mình ngộ rồi thì thôi, nếu không ngộ thì phải nhờ Thiện tri thức chỉ dạy để chúng ta nhân đấy mà ngộ. Như vậy muốn được ngộ là phải nhờ sự chỉ dạy của Thiện tri thức để nhận ra Bản tâm, Bản tánh của mình, chớ không phải cầu Thiện tri thức ở bên ngoài để làm cho mình được giải thoát. Có nhiều Phật tử cứ nghĩ rằng đi đến cầu thầy, cầu những vị tu hành cứu mình hết phiền não, làm cho mình hết khổ. Nếu y theo pháp Phật mà tu thì mỗi người tự giải khổ, chớ có ai làm cho ai hết khổ được? Có ai làm cho ai hết phiền não được? Như hiện nay quí thầy tu, còn Phật tử chưa tu, quí thầy muốn dạy cho Phật tử hết phiền não phải dạy thế nào? Phật dạy các pháp quán hoặc là nhẫn nhục hoặc là từ bi hoặc là vô thường, hoặc là dùng trí Bát-nhã thấy các pháp là giả dối v.v... Chúng ta biết ứng dụng các pháp Phật dạy, tu sửa lần lần hết phiền não, chớ các thầy không thể nào làm cho Phật tử hết phiền não được. Vậy khi có phiền não chạy đến cầu thầy cứu được không? Chư Tăng chư Ni chỉ là người đi trước, biết được những gì Phật Tổ dạy, rồi đem những pháp đó chỉ lại, Phật tử ứng dụng tự nhiên bớt phiền não, chớ không ai làm cho mình hết phiền não. Nếu trông cầu Thiện tri thức đưa mình đến chỗ giải thoát thì không đúng, không bao giờ có việc như vậy. Thiện tri thức chỉ cho mình tự tỉnh, tự giác, sau khi tỉnh giác mình tiến tu mới giải thoát. Nếu người khác làm cho mình giải thoát được thì thuở xưa những đệ tử gần với Phật nhất như ngài A-nan, ngài La-hầu-la không cần phải tu. Ngài A-nan là em của Phật, ngài La-hầu-la là con Phật, Phật thành Phật rồi hai vị đó nhờ Phật độ cũng được giải thoát? Nhưng học kinh Lăng Nghiêm, chúng ta thấy ngài A-nan bị Ma-đăng-già dẫn dụ, Ngài khổ sở, hối hận, khóc bạch với Phật: Con ỷ lại là em của Phật, nay mới thấy nếu con không tu thì không thể nào giải thoát được. Như vậy chính em đức Phật, con đức Phật mà đức Phật không độ cho giải thoát được, huống nữa là chư Tăng phàm phu. Như thế để quí vị hiểu rằng muốn được giải thoát là y theo lời Phật dạy mà tự tu sửa phiền não che lấp Bản tâm. Do tu sửa rồi tự mình sáng, tự mình giác, cái sáng, cái giác đó làm cho mình được giải thoát, chớ không ai làm cho mình giải thoát cả.
Vì cớ sao? Trong Tự tâm có tri thức tự ngộ, nếu khởi tà mê vọng niệm điên đảo thì Thiện tri thức bên ngoài tuy có giáo hóa chỉ dạy, cứu cũng không thể được.
Nghĩa là trong tâm mình tự có Thiện tri thức, nếu mình khởi niệm xấu thì niệm thiện của tâm quở trách cái xấu, cái xấu hết. Niệm thiện biết quở trách cái xấu là Thiện tri thức của Tự tâm. Còn nếu quí vị khởi niệm xấu, ví như ra chợ, ai nói tức, quí vị giận muốn mắng chửi người, khi ấy Thiện tri thức ở chùa làm sao gặp quí vị mà khuyên cho kịp. Khi muốn mắng người, chỉ Thiện tri thức của Tự tâm khởi lên mới chận kịp, chớ Thiện tri thức ở chùa xa quá không thể đến chận kịp. Như vậy để biết rằng cứu mình gần nhất là Thiện tri thức của Tự tâm, còn Thiện tri thức ở xa như thầy bạn khó cứu mình kịp. Thành ra thầy bạn chỉ là người hướng dẫn cho mình biết đạo lý rồi tự ứng dụng hằng ngày hằng giờ tự tu.
Nếu khởi chánh chân Bát-nhã quán chiếu thì trong khoảng một sát-na vọng niệm đều diệt. Nếu biết Tự tánh một phen ngộ tức đến quả vị Phật.
Phật địa tức là quả vị Phật. Đoạn trước Ngài dạy nếu khởi tâm tà mê, sanh điên đảo thì Thiện tri thức ở ngoài cứu không được. Đoạn này Ngài dạy nếu chúng ta khởi tâm chân chánh, dùng Trí tuệ Bát-nhã quán chiếu thì chỉ trong khoảng một sát-na hay là trong khoảng một phút, một giây bao nhiêu vọng niệm đều hết, đó là tự biết được Tự tánh rồi tự ngộ mà đến Phật địa. Chúng ta phải hiểu thật rõ, Bát-nhã chia ra làm ba phần: Văn tự Bát-nhã, Quán chiếu Bát-nhã và Thật tướng Bát-nhã. Như quí vị thường tụng một thời ba biến, đọc chữ, đọc nghĩa, đó là Văn tự Bát-nhã. Còn Quán chiếu Bát-nhã là sao? Nếu đọc đi đọc lại bài Bát-nhã đến thuộc làu, đó chỉ là thuộc văn tự thôi. Nay đọc “Quán Tự Tại Bồ-tát hành thâm Bát-nhã Ba-la-mật-đa thời, chiếu kiến ngũ uẩn giai không...”, chiếu kiến là quán chiếu. Quán chiếu như thế nào? Tức ngay thân năm uẩn, chúng ta phân tích cái gì là sắc uẩn? Sắc uẩn là phần hình thức vật chất. Trong phần hình thức vật chất này có những thứ nào kết hợp lại? Đất nước gió lửa. Cái gì là đất? Tức là những chất cứng như tóc, lông, răng, móng, da thịt, gân xương v.v... Cái gì là chất ướt? Máu mủ, mồ hôi v.v... Chúng ta phân tích, quán chiếu như thế. Ví như quí vị đang phiền não vì bị người hiếp đáp hoặc nói xấu v.v... quí vị không nhớ câu họ nói mà lại quán chiếu thân này có thật hay không, quán kỹ nó do đất nước gió lửa kết hợp v.v... quán một lúc quí vị còn sân si với câu người ta nói không? Nếu quán chiếu thấy thân không thật thì nói tốt, nói xấu, hoặc khen, hoặc chê cũng là thừa. Thế nên nói khi dùng Quán chiếu Bát-nhã thì tất cả vọng niệm đều diệt. Trái lại chúng ta cứ đọc Văn tự Bát-nhã mãi nên không diệt được gì cả, rồi nói tôi tu mấy mươi năm, thầy dạy tụng Bát-nhã nhưng đến nay phiền não vẫn còn! Muốn hết phiền não phải Quán chiếu Bát-nhã, nhờ quán chiếu chúng ta mới thấy rõ thân là duyên hợp hư giả; từ thân đến tâm cũng xét nó là duyên hợp không thật. Như vậy cả thân lẫn tâm biết rõ là tướng duyên hợp không thật thì bao nhiêu phiền não đều hết. Quán chiếu đến đó thì phiền não dứt, Thật tướng Bát-nhã hiện. Như vậy từ Văn tự đến Quán chiếu, Quán chiếu rồi mới hiện Thật tướng. Chúng ta tu chỉ mới phần đầu thôi, chỉ Văn tự đã thấy là đủ nên không Quán chiếu, vì thế không hết phiền não. Quí vị thấy rõ trong kinh Bát-nhã nói: Bồ-tát Quán Tự Tại khi dùng trí Bát-nhã quán chiếu năm uẩn là không thật liền qua tất cả khổ nạn. Khổ nạn nào Ngài cũng qua, còn chúng ta vì không quán chiếu nên qua khổ nạn không nổi! Vậy muốn qua khổ nạn phải quán chiếu chớ không được nói tôi tụng Bát-nhã qua hết khổ nạn! Tụng mãi cũng không qua hết, chỉ khi nào quán chiếu như thế mới hết. Vậy chúng ta thấy rõ trong sự tu hành, muốn diệt phiền não phải dùng trí tuệ mà diệt, tức là đúng như trong kinh Bát-nhã dạy là hằng dùng trí để quán sát. Như vậy mới đúng câu: “mồi đuốc trí tuệ của mình từ đuốc của Phật”. Nhân lời Phật Tổ dạy, chúng ta đem trí tuệ mình quán chiếu, do đó mới có trí sáng. Nay chúng ta nghe đọc suông, đọc thuộc lòng, nhưng không quán chiếu thì làm sao có sáng, không sáng thì làm sao hết phiền não? Đây là cội gốc của sự tu hành, Tổ dạy những lẽ thật, chúng ta phải thấy rõ. Thế nên Ngài bảo nếu dứt phiền não thì tự thấy Bản tánh, thấy Bản tánh là ngộ, ngộ tức nhiên đến quả vị Phật.


GIẢNG 3
Này Thiện tri thức, trí tuệ quán chiếu trong ngoài sáng suốt, biết Bản tâm mình, nếu biết Bản tâm tức là gốc của sự giải thoát. Nếu được giải thoát tức là Bát-nhã tam-muội, tức là vô niệm.
Ngài dạy cho chúng ta thấy do dùng Trí tuệ Bát-nhã quán chiếu, nên trong ngoài chúng ta đều rỗng suốt, do đó chúng ta mới nhận ra được Bản tâm. Tôi thường nói với quí vị muốn biết được cái thật thì điều kiện tiên quyết là phải nhận ra cái giả. Biết được cái giả rõ ràng thì trên cái giả đó mình mới nhận ra mặt thật. Vì vậy từ Quán chiếu Bát-nhã chúng ta mới thấy được vọng niệm là hư giả, vọng niệm hết rồi thì Tự tánh chân thật mới hiển bày. Tự tánh chân thật hiển bày là mình thấy được Bản tâm của mình; thấy được Bản tâm là gốc của giải thoát. Thế nên tôi thường nói giác ngộ mới giải thoát. Thấy được Bản tâm tức là thấy được cái chân thật, nhân thấy được cái chân thật nên tất cả những vọng tưởng phiền não hư giả không còn đủ sức lôi cuốn chúng ta nữa, như vậy mới gọi là thoát ly sanh tử. Nếu không có giác ngộ thì không bao giờ giải thoát, mà muốn giác ngộ là phải thấy được cái thật. Muốn thấy cái thật thì trước phải biết cái giả. Muốn biết cái giả phải dùng Trí tuệ Bát-nhã quán chiếu. Chúng ta quán thấy các pháp là duyên hợp hư giả, nhưng không phải là bi quan, vì chúng ta biết rõ cái giả để nhận ra cái thật, chớ không phải để chán. Nếu không nhận ra cái thật thì người ta có thể bi quan, còn chúng ta biết ngay cái giả đó có cái thật, như vậy sự tu mới đưa chúng ta đến chỗ viên mãn cứu kính. Ngài dạy rằng được giải thoát như thế là được Bát-nhã tam-muội, đó là vô niệm.
Sao gọi là vô niệm? Nếu thấy tất cả pháp mà tâm không nhiễm trước, ấy là vô niệm.
Thật là đơn giản! Vô niệm là gì? Thấy tất cả pháp mà tâm không nhiễm. Không nhiễm trước là không dính, không mắc. Thấy người, thấy vật, thấy đủ cả, biết rõ ràng mà không dính mắc nơi người, nơi vật, đó là vô niệm. Còn dính là có niệm. Suy nghĩ về người, về vật thì sự suy nghĩ đó làm cho chúng ta có niệm thương ghét... đó là chúng ta dính mắc. Thế nên khi chúng ta thấy tất cả mà không suy nghĩ việc đó thế này, thế kia v.v... thì đó là vô niệm. Nếu vô niệm thì thế nào?
Dụng tức khắp tất cả chỗ, cũng không dính mắc tất cả chỗ, chỉ thanh tịnh nơi Bản tâm, khiến sáu thức ra sáu cửa đối trong sáu trần không nhiễm không tạp, đi lại tự do, thông dụng không kẹt tức là Bát-nhã tam-muội, tự tại giải thoát gọi là vô niệm hạnh.
Ngài dạy thật là cụ thể. Ngài bảo rằng đối với tất cả pháp mà tâm không nhiễm, không trước, đó là vô niệm; vì không nhiễm không trước nên dụng khắp tất cả chỗ nhưng không dính mắc ở tất cả chỗ, chỉ Bản tâm mình thanh tịnh. Khi Bản tâm thanh tịnh thì sáu thức ra sáu cửa: lỗ tai có cái biết của lỗ tai, con mắt cũng có cái biết của con mắt..., sáu thức ra vào đối tiếp với sáu trần nhưng không dính, không lẫn trong sáu trần, đi lại tự do, như vậy gọi là Bát-nhã tam-muội. Đừng nghe nói tam-muội là chánh định rồi tưởng rằng ngồi một chỗ, ngó xuống, tâm yên hết thì gọi là chánh định Bát-nhã. Làm thế nào sáu căn tiếp xúc sáu trần vẫn có sáu thức phân biệt, nhưng không dính, không kẹt lẫn trong sáu trần thì đó là Bát-nhã tam-muội. Như vậy tu Bát-nhã tam-muội dễ hay khó? Đâu có bắt chúng ta ngồi một chỗ kềm cho được yên lặng rỗng rang, chỉ làm sao sáu căn tiếp xúc với sáu trần, có sáu thức theo đó nhưng không dính không kẹt với sáu trần, đó là Bát-nhã tam-muội. Như thế quí vị có thể cả ngày đi ngoài đường ngoài chợ mà vẫn Bát-nhã tam-muội như thường. Trái lại nếu bị dính mắc thì hết tam-muội! Đấy sự tu hành rõ ràng như thế, nên Ngài nói “khiến cho sáu thức ra sáu cửa tiếp xúc sáu trần mà không nhiễm, không tạp, đi lại tự do, thông dụng không kẹt, đó là Bát-nhã tam-muội, tự tại giải thoát gọi là vô niệm hạnh”. Như vậy không dính không mắc rồi giải thoát tự tại đó gọi là vô niệm hạnh, nghĩa là cái hạnh vô niệm. Trong khi hành động đối với mọi cảnh, mọi người chúng ta hằng sống trong vô niệm. Đến đây Ngài mới quở chỗ bệnh:
Nếu trăm vật chẳng nghĩ, chính khi đó khiến cho niệm bặt đi, ấy là pháp phược, ấy gọi là biên kiến.
Qua đoạn này quí vị thấy lối tu của Lục Tổ rõ ràng khác với lối tu của những người kềm giữ. Ngài nói rằng nếu trăm vật chẳng nghĩ tức là mình chối bỏ tất cả không dám thấy, không dám biết gì hết, chỉ ngồi một chỗ kềm, đè tâm mình xuống không cho nó nhớ nghĩ điều gì, chính khi ấy khiến cho niệm bặt đi, nếu khiến cho niệm bặt là pháp phược. Pháp phược là bị pháp trói. Nghe nói tâm mình thanh tịnh không động, chúng ta cứ đè cho nó thanh tịnh, không động thì đó là bị pháp trói, đó là biên kiến chớ chưa phải thấy đạo. Đoạn này phải hiểu kỹ để quí vị khỏi đâm ra nghi ngờ. Vậy Lục Tổ cho nghĩ hay không cho nghĩ? Như ngồi suy nghĩ ông A sớm mai nói cái gì, cô B ban chiều nói điều gì, nghĩ việc này việc kia v.v... cho là đúng. Chỗ này tôi thấy dễ bị lầm lắm. Tổ bảo trăm vật không nghĩ tức đè cho niệm bặt đó là biên kiến. Như vậy chúng ta tu thế nào để không phải là biên kiến? Tức là phải tu “vô niệm” như Ngài dạy, nghĩa là thấy nghe tất cả mà không dính không mắc với tất cả. Có người khi ngồi thiền nghe tiếng nói bên ngoài họ sợ lắm, cho rằng nghe tiếng là động, thấy bóng người đi qua cũng sợ, họ cố đừng nghe đừng thấy để đè tâm xuống, như vậy là biên kiến. Còn chúng ta ngồi thiền thì cứ ngồi, người ta nói chúng ta cũng nghe, nhưng không suy nghĩ xem người đó nói cái gì, khen ai, chê ai... nghe thì biết mình đang nghe. Có ai đi tới cũng thấy và biết mình đang thấy, chớ không có cái “không biết”. Thành ra hai việc khác nhau, tôi nói cho quí vị đừng lầm. Nếu ngồi thiền mà sợ tiếng, sợ thấy, sợ tất cả, chỉ đè tâm mình xuống cho nó lặng, như vậy chỉ có một cách đè thôi, nên không có cái giác. Trái lại chúng ta ngồi thiền mà hằng giác, tai nghe, mắt thấy, tất cả cơ quan đều có cảm giác, nhưng không chạy theo trần cảnh bên ngoài. Người ta nói cái gì mình cũng nghe, biết mà không chạy theo, suy nghĩ thêm cái đó hay dở ra sao, như vậy không phải là trăm vật không nghĩ. Chỗ này rất tế nhị và đa số người tu hay bị kẹt trong hai trạng thái: hoặc là không nghĩ tức là đè, hoặc là nghĩ tức là suy nghĩ đủ thứ... Chúng ta thường bị kẹt vào một trong hai điều đó, chớ không chịu ở khoảng giữa như Lục Tổ dạy. Chỗ Lục Tổ dạy là thấy nghe đều biết mà không chạy theo, nghe nói vẫn biết câu nói đó thế nào, người nói là nam hay nữ, biết rõ ràng nhưng không thêm cái gì trong câu đó; thấy người đi biết người, thấy vật biết vật, thấy cái gì biết cái ấy nhưng không thêm điều gì trong cái thấy đó. Như vậy ngồi thiền vẫn tỉnh, vẫn sáng không có đè; hằng thấy hằng biết nên là tỉnh, vì tỉnh nên với tâm đó mình không bao giờ mất. Nếu chúng ta chỉ đè cho nó lặng xuống thì một lúc coi như cây khô; nếu nó lặng được như cây khô là vô tri vì không nghe, không thấy, không biết gì cả, như ngồi chết khô. Cái đó là một sức mạnh nhưng chính là định của Tiểu thừa, thường trong kinh Đại thừa Phật quở là trầm không trệ tịch. Còn cái định của Thiền tông, định mà như không định. Người ta nói mình nghe rõ ràng, nói tiếng nào mình biết tiếng ấy, người ta đi tới đi lui mình thấy rõ ràng nhưng không chạy theo, đó là định. Bởi vì tâm không dấy khởi, đó là định, không dấy khởi mà hằng tri hằng giác, đó mới là quí. Chỗ mà Lục Tổ dạy đây là sáu căn tiếp xúc với sáu trần, sáu thức vẫn ra tiếp nhưng không dính, không mắc với sáu trần, đó là định, đó là vô niệm, chớ không phải đè là vô niệm. Vì vậy nếu tu theo Lục Tổ thì ít có dịp ngồi thiền lắm. Khi Lục Tổ còn ở đời, có lần thấy một ông Tăng ngồi thiền nơi hành lang, Ngài đến kê miệng vào tai thổi phèo một cái; lại một lần khác Ngài thấy một vị Tăng ngồi thiền ở một góc vườn, Ngài cầm gậy đập. Nhưng sau này các Tổ thấy chúng ta không thực hành nổi lời dạy của Lục Tổ, sáu căn của chúng ta vừa tiếp xúc thì nó chạy ra hòa với sáu trần rồi, nó dẫn chúng ta chạy mãi nên chư Tổ bắt ngồi lại cho đỡ một chút. Nhưng việc ngồi của chúng ta khác hơn, là khi ngồi không có đè, cũng không bặt hết không biết gì, mà là hằng biết tất cả vật nhưng không chạy theo, nghĩa là kia nói “bách vật bất tư” còn chúng ta “bách vật hằng tri” nhưng không chạy theo vật nào cả, như thế mới đúng với lời dạy của Lục Tổ. Hiểu như thế, chúng ta mới thấy Lục Tổ chỉ phương pháp tu rất là đơn giản, rất là thẳng tắt, đường lối của Lục Tổ là ngay trong cuộc sống hiện tại, chúng ta hằng hoạt động mà hằng tu, chớ không phải ngồi một chỗ mới tu. Sáu căn tiếp xúc sáu trần, sáu thức vẫn ra nhưng không bị dính, bị kẹt, đó là thông suốt, mà thông suốt như vậy gọi là vô niệm hạnh.
Này Thiện tri thức, người ngộ được pháp vô niệm thì muôn pháp đều thông, người ngộ được pháp vô niệm thì thấy cảnh giới của chư Phật, người ngộ được pháp vô niệm thì đến địa vị Phật.
Trong đoạn này Tổ khen ngợi pháp môn vô niệm. Người ngộ được pháp môn vô niệm thì muôn pháp đều thông, nghĩa là pháp nào cũng thấu suốt được. Vậy muốn đến địa vị Phật, muốn thấy được cảnh giới Phật và muốn thông được tất cả pháp thì phải tu vô niệm. Vô niệm là gì? Đoạn trước đã giảng vô niệm là đối với tất cả cảnh, tất cả xứ, trong tất cả thời mà không dính mắc. Vô niệm là như vậy và người được như thế là thông tất cả pháp, là thấy được cảnh giới Phật, là đến được quả vị Phật. Như vậy quí vị thấy thành Phật hình như không khó. Bởi vì đối với tất cả cảnh mình không dính mắc là được, nhưng không hiểu tại sao chúng ta không chịu như thế, mà cứ dính mắc hoài! Đâu cần thêm điều gì, chỉ đừng dính, đừng mắc là được. Vì vậy khó là tại chúng ta dính mắc, chớ nếu y lời Tổ dạy, gặp tất cả cảnh mà không dính mắc thì cảnh giới Phật đâu còn khó đối với mình.
Này Thiện tri thức, đời sau người được pháp của ta, đem pháp môn đốn giáo này, đối với hàng người đồng kiến đồng hành phát nguyện thọ trì như là thờ Phật.
Ngài nói thêm cho chúng ta biết về sau những người được pháp môn đốn giáo này tức là pháp môn vô niệm do Tổ dạy, nên đem pháp môn ấy đối với người mà truyền bá, đối với người đồng tu hành và phát nguyện thọ trì pháp môn đốn giáo này, những người truyền pháp môn đốn giáo này thì mình thờ kính như là thờ kính Phật.
Cố gắng tu thân không dám lui sụt thì quyết định vào quả vị Thánh; nhưng phải truyền trao, từ trước đến giờ, thầm truyền trao phó chớ không được giấu kín chánh pháp.
Ngài bảo tất cả chúng ta khi nhận hiểu được pháp môn đốn giáo này rồi, phải y theo sự truyền thừa của các bậc tiền bối mà truyền lại cho kẻ hậu lai, không được ẩn giấu pháp môn này.
Nếu không phải là hàng đồng kiến đồng hành, ở trong pháp môn khác thì không được truyền trao, e tổn tiền nhân kia, cứu kính vô ích, sợ người ngu không hiểu, chê bai pháp môn này rồi trăm kiếp ngàn đời đoạn chủng tánh Phật.
Đoạn trước nói gặp người đồng kiến đồng hành, đây nói trường hợp không phải đồng kiến đồng hành. Chữ tiền nhân kia, ở đây có hai ý: tiền nhân là người trước, người hiện đối mặt với mình cũng là người trước, hoặc người thuộc quá khứ cũng là người trước, trong đoạn này cả hai đều có nghĩa. Đối với người trước như bậc Tôn túc của chúng ta chỉ cho chúng ta pháp môn đốn giáo, pháp đó cao, nay chúng ta đem chánh pháp cao quí như vậy dạy người trình độ thấp quá, không hợp nên họ khinh lờn, như vậy là làm cho giá trị người trước bị tổn giảm, đó là tại chúng ta sai. Đối với người đối diện mình, nếu họ không hiểu nổi pháp môn đốn giáo, tỉ dụ họ chỉ cần thầy dạy tu thế nào để đời sau họ sung sướng hơn đời này, mà chúng ta dạy việc giải thoát, pháp vô niệm thì họ không hiểu gì cả. Như vậy không có lợi cho họ, không đúng điều họ muốn, dĩ nhiên họ đâm ra chán khinh pháp cao cả của Phật Tổ, khinh pháp là có tội cũng là tổn giảm cho họ. Thế nên cả hai đều có tổn giảm. Nhưng ở đây chữ tiền nhân chỉ cho người đối diện nhiều hơn, vì những câu sau Ngài nói “cứu kính vô ích” nghĩa là chúng ta trao pháp cho họ rồi làm tổn hại tiền nhân kia, cứu kính là vô ích. “Sợ người ngu không hiểu, chê bai pháp môn này rồi trăm kiếp ngàn đời đoạn chủng tánh Phật.” Như vậy hình như nhắm vào người đối diện nhiều hơn. Vì e họ không hiểu rồi khinh chê làm cho trăm kiếp ngàn đời đoạn chủng tánh Phật. Tại sao? Ngay nơi tâm mình tức là Phật, mê là chúng sanh, ngộ là Phật, nay không hiểu, chê pháp đó là sai thì chừng nào họ tìm ra Phật? Ngay nơi tâm mình đã có Phật mà không chấp nhận thì bao giờ tìm ra Phật? Thế nên đó là làm cho họ trăm kiếp ngàn đời đoạn chủng tánh Phật.
Này Thiện tri thức, tôi có một bài tụng Vô tướng, mỗi người phải tụng lấy, người tại gia, người xuất gia chỉ y đây mà tu, nếu không tự tu, chỉ ghi nhớ lời của tôi thì cũng không có ích gì. Nghe tôi tụng đây.
Tổ dạy chung không dạy riêng cho giới nào. Tại gia hay xuất gia, nếu hiểu được, y như vậy tu đều có lợi, chớ đừng nhớ lời dạy, nhớ suông không có ích gì. Nhưng đa số chúng ta hiện nay hay thuộc lòng, nghe Tổ nói bài tụng hay quá, cứ học thuộc làu mà không chịu tu gì cả.
Tiếp theo giải thích từng đoạn bốn câu của bài tụng:
Thuyết thông cập tâm thông,
Như nhật xử hư không,
Duy truyền kiến tánh pháp,
Xuất thế phá tà tông.
Thuyết là chỉ cho giáo lý, tâm chỉ cho Thiền. Mở đầu bài tụng Ngài bảo: Người học đạo nếu thông cả hai mặt thuyết và tâm thì chẳng khác nào mặt trời ở giữa hư không. Ngôn ngữ thông, Tâm thể cũng thấy được, thì người đó như mặt trời ở giữa hư không, rọi sáng khắp mọi nơi. Chỉ truyền pháp kiến tánh, ra đời phá tà tông. Chủ yếu của Lục Tổ là truyền pháp thấy tánh (kiến tánh thành Phật), pháp đó ra đời để phá những tông tà lệch. Như vậy là nói lập trường, chủ trương của Ngài, nghĩa là bao nhiêu pháp Ngài chỉ dạy nhắm thẳng chỗ kiến tánh, nếu không kiến tánh thì chưa đúng chỗ Ngài muốn dạy, kiến tánh tức là nhận ra mình có Bản tánh.
Pháp tức vô đốn tiệm,
Mê ngộ hữu trì tật,
Chỉ thử kiến tánh môn,
Ngu nhân bất khả tất.
Ngài bảo pháp không chia là đốn hay tiệm, pháp chỉ như vậy, nhưng đốn tiệm là tùy theo căn cơ của người. Vì có người mê, có người ngộ nên có mau, có chậm; mau gọi là đốn, chậm gọi là tiệm. Sở dĩ pháp thành đốn tiệm là tùy căn cơ mê ngộ của người. Nhưng pháp kiến tánh này người ngu không thể hiểu. Tại sao? Bởi vì chỉ thẳng Bản tánh cho họ, nếu họ mê không nhận thì làm sao hiểu được. Thế nên phải nhận ra được Bản tánh mình mới hiểu được pháp của Tổ dạy.
Thuyết tức tuy vạn ban,
Hiệp lý hoàn qui nhất,
Phiền não ám trạch trung,
Thường tu sanh tuệ nhật.
Nói tuy có muôn thứ nhưng hợp với lý, trở về lý thì chỉ có một. Ở trong nhà tối phiền não, thường phải sanh mặt trời trí tuệ. Ngài nói về danh ngôn thì có muôn thứ, nhưng về lý thật thì chỉ có một, chớ không có nhiều. Dụ như hiện nay chúng ta học nào là Chân tâm, Phật tánh, nào là Niết-bàn, Chân như v.v... tên thì cả trăm, nhưng về lý thì chỉ một sự thật đó thôi, chớ không có cái khác. Vì tùy chỗ mà đặt tên nên kinh luận đặt rất nhiều tên gọi là thuyết, tức là trên danh ngôn, chớ đến chỗ chân thật chỉ có một, nên nói lý thì trở về một. Điểm quan trọng nhất là ngay trong nhà tối phiền não, chúng ta phải làm sao cho mặt trời trí tuệ xuất hiện. Đó mới là việc quan trọng trong sự tu hành. Hiện nay nhà chúng ta tối hay sáng? Tối thì phải cho mặt trời trí tuệ mọc lên sẽ hết tối, chớ không có gì khác.     
Tà lai phiền não chí,
Chánh lai phiền não trừ,
Tà chánh câu bất dụng,
Thanh tịnh chí vô dư.
Tà đến thì phiền não theo đó sanh, chánh đến thì phiền não hết. Tại sao tà lai phiền não chí? Ví như trước mặt chúng ta có người để một vật quí, xong họ đi vắng. Nếu khi ấy chúng ta dấy niệm tà thì thế nào? Bao nhiêu phiền não từ đó sanh. Nếu cũng vật đó, người chủ vắng mặt, nhưng chúng ta có niệm chánh thì phiền não hết. Như chúng ta vừa có niệm tà, muốn có vật quí ấy thì phiền não dấy lên; nếu niệm chánh đến, chúng ta tự trách sao mình lại xấu như vậy thì bao nhiêu phiền não cũng theo đó hết. Như vậy chỉ có một niệm thôi, nhưng sai đi thì bao nhiêu phiền não dẫn đến. Thế nên trong kinh thường nói “nhất ba tài động vạn ba tùy”, tức là một lượn sóng vừa nổi lên, muôn lượn sóng kéo theo. Cũng thế, một niệm sai thì bao nhiêu niệm khác dẫn, cho nên vừa có một niệm sai là phải dẹp và phiền não cũng theo đó dứt, như vậy là lấy chánh độ tà. Trong tương đối phải như thế, nhưng đến chỗ cứu kính thì sao? Cả tà lẫn chánh đều không dùng, mới hoàn toàn thanh tịnh không còn thừa gì nữa cả. Vậy là tu từ cái đối đãi, lần lần đến chỗ vượt khỏi đối đãi. Hiện nay chúng ta trong giai đoạn đầu khéo ứng dụng cái đối đãi mà tu, rồi lần lần sẽ đi tới chỗ hết đối đãi. Tóm lại, Ngài chỉ cho chúng ta tu từ cái đối đãi, khéo tu thì phiền não hết, rồi cả hai bên tà chánh đều buông thì lúc đó mới là hoàn toàn thanh tịnh.
Bồ-đề bản Tự tánh,
Khởi tâm tức thị vọng,
Tịnh tâm tại vọng trung,
Đãn chánh vô tam chướng.
Bồ-đề là giác, cái giác đó ở đâu? Vốn là Tự tánh của mình. Giác vốn không phải cái gì xa, mà ngay nơi Tự tánh của chúng ta, cho nên kiến tánh là thấy Bồ-đề, là giác. Khởi tâm tức là vọng. Như vậy Tự tánh hằng tri hằng giác là Bồ-đề, vừa dấy niệm lên là vọng. Tâm tịnh ở trong vọng, chỉ ngay đó mà chánh lại thì không có ba chướng. Ba chướng là gì? Là nghiệp chướng, phiền não chướng, báo chướng. Nghiệp chướng là những thói quen, việc làm của mình. Thí dụ như chúng ta quen hút thuốc, ngày nào không có thuốc thì ngáp tới ngáp lui đó là nghiệp chướng, vì cái nghiệp quen hút thuốc nay thiếu, nó sanh chướng làm phiền mình. Đó là nói nghiệp nhỏ, nghiệp lớn cũng vậy. Phiền não chướng tức tham sân si. Báo chướng tức là thân bệnh hoạn, muốn tu, muốn làm lành làm công đức, nhưng cứ bệnh mãi nên tu không được. Đa số người tu hiện nay bị ba chướng làm khổ sở làm trở ngại, có người thì bị nghiệp chướng thói quen dẫn chạy hoài, dừng không nổi; có người bị phiền não chướng, mỗi lần nghe người nói thế này, thế kia là nổi sân lên; có người không có hai chướng trên nhưng thân cứ đau mãi. Nay muốn hết ba chướng, phải làm sao? Phải ngay trong vọng mà tâm mình thanh tịnh thì ba chướng hết, nghĩa là những vọng tưởng lặng, tâm thanh tịnh hiện thì chướng dứt. Vì sống với tâm thanh tịnh thì không có báo chướng, cũng không có nghiệp chướng, cũng không cả phiền não chướng. Trái lại sống với thân này là bị báo chướng, nghiệp chướng... Tóm lại, Ngài chỉ cho chúng ta biết rõ Bản tánh mình là Bồ-đề, Bản tánh mình là cái hằng tri hằng giác sẵn có. Chưa dấy niệm thì Bản tánh đó là Bồ-đề, vừa dấy niệm là vọng, vọng lặng, tâm thanh tịnh thì thoát khỏi ba chướng. Thật dễ dàng như vậy đó!
Thế nhân nhược tu đạo,
Nhất thiết tận bất phòng,
Thường tự kiến kỷ quá,
Dữ đạo tức tương đương.
Người đời nếu muốn tu hành thì tất cả trọn không có chướng ngại. Ai tu cũng được cả, nhưng muốn tu hành cho dễ, trước thường tự thấy lỗi mình. Nếu thường thấy lỗi của mình tức là hợp với đạo. Trên thế gian này ai cũng tu được cả, không có lựa người nào, nhưng muốn tu cho gần với đạo là phải thường thấy lỗi của mình. Thí dụ như đang đi, vừa khởi một niệm gì liền biết niệm là sai, dừng nó lại, thường thấy như vậy là cùng đạo tương đương. Trái lại, thì cùng đạo không tương đương.
Sắc loại tự hữu đạo,
Các bất tương phòng não,
Ly đạo biệt mích đạo,
Chung thân bất kiến đạo.
Các loại có hình sắc tự có đạo, mỗi cái không phòng não nhau, không làm chướng ngại nhau, nếu lìa đạo riêng tìm đạo, tức lìa sắc loại v.v... tìm đạo thì trọn đời không bao giờ thấy đạo. Tại sao sắc có đạo? Thí dụ như cái đồng hồ này có đạo không? Nếu thấy đồng hồ mà chúng ta không dấy niệm gì cả thì có đạo, còn nếu thấy đồng hồ mà sanh niệm xấu tốt thì không có đạo. Như vậy trên thế gian này tất cả hình sắc đều không có gì chướng ngại, không có lỗi lầm, chỉ tại tâm chúng ta chạy theo cảnh nên thành chướng ngại, thành lỗi lầm. Nếu tâm không theo cảnh thì cảnh đâu có lỗi lầm gì, khi ấy thấy cái gì cũng là thấy đạo cả, cho nên gọi là “Kiến sắc minh tâm”, thấy sắc biết là mình có cái hay thấy tức nhiên là thấy đạo rồi! Như vậy cái gì không phải đạo? Đâu phải thấy đạo là không thấy gì cả, nhà cửa cây cối người vật đều là hiện tướng của đạo, nếu tâm mình thấy mà không dính không mắc. Trái lại nếu tâm mình dính mắc thì đó là chướng ngại, chớ không phải là đạo. Thế nên, nói tất cả sắc loại đều là đạo. Chúng ta thường nói: Thế gian này trần tục lắm, cái gì cũng không có đạo lý hết, khó tu lắm! Phải đi đâu tu mới hết thấy người, thấy cảnh? Lên trên núi ở một mình nhưng hết gạo cũng phải xuống núi gặp người thế gian, quần áo rách rưới cũng phải xuống thế gian... như vậy trốn ở đâu bây giờ? Sao bằng ngay trong thế gian này chúng ta thấy tất cả đều là đạo, như thế mới tu được, chớ trốn tất cả cảnh để cầu đạo thì khi nào được? Vì thế Tổ bảo: ly đạo biệt mích đạo, chung thân bất kiến đạo, tức là lìa đạo, lìa cái hiện hữu ở đây đi tìm đạo nơi nào khác thì trọn đời không bao giờ thấy đạo. Có nhiều người tu không bao giờ hài lòng, ở thành thị thì nói thành thị ồn quá, muốn đến thôn quê ở, về thôn quê cũng thấy những cái phiền của thôn quê, muốn vào trong núi cũng gặp những cái phiền của núi... Sự thật đi suốt kiếp cũng không có chỗ nào như ý mình được, vì mỗi chỗ có cái phiền khác nhau, chỉ là ngay đó chúng ta đừng dính đừng kẹt thì đó là đạo, đạo ngay trong thế gian.
Ba ba độ nhất sanh,
Đáo đầu hoàn tự áo,
Dục đắc kiến chân đạo,
Hạnh chánh tức thị đạo.
“Ba ba độ nhất sanh” tức là lăng xăng qua một đời, nay ở chỗ này, mai dời chỗ kia, trọn một đời chưa tìm được chỗ ở. “Đáo đầu hoàn tự áo” là rốt cuộc rồi cũng tự phiền, tự buồn, không hài lòng. Muốn thấy đạo chân thật, hạnh chánh đó là đạo rồi, chớ không tìm đâu cả, nghĩa là trong mọi cảnh chúng ta đừng dính mắc bên này bên kia thì đó là đạo. Ngay cái chánh này là đừng dính mắc hai bên có không, phải quấy, tốt xấu, thì ngay đó là đạo. Trái lại nếu chúng ta còn có tâm niệm dính mắc, dù chạy vào rừng hay lên núi lên non cũng không bao giờ thấy đạo. Như vậy là quá rõ! Chúng ta phải biết như vậy mà tu. Có những người cứ lăng xăng nay chỗ này mai nơi kia để tìm đạo, rốt cuộc làm gì có đạo. Thế nên Ngài dạy lăng xăng qua một đời, cuối cùng rồi tự phiền muộn; muốn thấy đạo chân thật không gì hơn là hạnh đúng đắn tức là hạnh không kẹt vào bên này hoặc bên kia thì đạo hiện tiền.
Tự nhược vô đạo tâm,
Ám hạnh bất kiến đạo,
Nhược chân tu đạo nhân,
Bất kiến thế gian quá.
Ám hạnh tức là hạnh mờ tối. Tổ dạy vì trong tâm mình không có đạo nên hạnh mình mờ tối, do đó không thấy đạo. Nếu người chân chánh tu hành thì không thấy lỗi của thế gian. Trong đoạn trước Ngài bảo người nào không thấy lỗi của kẻ khác thì người đó gần với đạo, tương đương với đạo. Trong đoạn này Ngài nhắc người chân chánh tu hành là không thấy lỗi thế gian. Còn chúng ta hiện nay thế nào? - Thấy lỗi người nhiều quá! Ở chung năm, ba chị em thì chị nào cũng có lỗi cả. Ngồi lại nói chuyện với người khác thì chị số một lỗi này, chị số hai lỗi kia, chị số ba lỗi nọ... chỉ có mình là không kể lỗi. Vì thấy lỗi thế gian nhiều quá nên không làm sao gần đạo được. Thế nên Ngài dạy người tu hành chân chánh phải không thấy lỗi của thế gian.
Nhược kiến tha nhân phi,
Tự phi khước thị tả,
Tha phi ngã bất phi,
Ngã phi tự hữu quá.
Trong đoạn này Ngài chỉ thẳng cho chúng ta thấy căn bản của sự tu hành. Nếu thấy lỗi của người khác thì lỗi của chính mình đã tới bên tả, tức là bên cạnh rồi. Người khác quấy, ta chẳng quấy, ta quấy tự nhiên ta có lỗi. Nếu cứ thấy lỗi người này người kia, đến đâu cũng kể lỗi người tức mình đã có lỗi, lỗi của mình đã sờ sờ đó rồi! Điều đó dễ hiểu lắm. Người lỗi ta chẳng lỗi, ta quấy tự ta có lỗi. Tại sao người lỗi mà ta không lỗi? Tức là người đó có cái dở, nhưng là chuyện của họ, chúng ta đừng can thiệp vào, như vậy họ có lỗi mà ta không lỗi. Tại sao cả ngày chúng ta cứ làm việc thiên hạ, đi xóm này nói chuyện của xóm kia, đi xóm kia nói chuyện của xóm này. Chúng ta không tự thấy lỗi mà cứ thấy lỗi của người, rồi chen vào việc của họ, nếu chúng ta chen vào lỗi của người thì ta thành có lỗi. Nếu chúng ta có lỗi thì tự thấy rồi tự sửa, tại sao chỉ thấy lỗi của người rồi đem mách người này người kia chi cho thêm phiền, cho thành lỗi? Thật ra hầu hết chúng ta đều có bệnh hay đem chuyện người ra nói, còn chuyện của mình, điều hay thì nói, điều dở thì giấu kín, từ đó sanh ra tự cao. Vì thấy người có lỗi nên ai cũng thua mình, còn lỗi mình thì giấu mất nên thấy mình cao hơn thiên hạ, đó là ngã mạn. Trái lại, chúng ta thấy lỗi mình thì đâu có tự cao, đâu dám tự xưng ta hơn người; không thấy lỗi người thì đâu dám xem người thấp, đâu biết ai dở mà dám khi, như vậy ngã mạn theo đó hết. Việc tu hành tế nhị như vậy, nếu thấy lỗi người mà không thấy lỗi mình thì sanh ngã mạn, đó là bệnh làm cho người tu bị chướng ngại.
Đãn tự khước phi tâm,
Đả trừ phiền não phá,
Tắng ái bất quan tâm,
Trường thân lưỡng cước ngọa.
Tổ nói thật là dễ dàng, chỉ tự mình dẹp lỗi nơi tâm mình, trừ hết các phiền não, yêu ghét đều không bận lòng thì duỗi thẳng hai chân ngủ. Thương ghét không có bận lòng thì duỗi thẳng hai chân ngủ khò! Chúng ta ngủ không được là tại còn thương ghét. Người thương mà xa thì nhớ ngủ không được, người ghét mà gần cũng tức ngủ không được. Như vậy hai việc làm cho chúng ta ăn không ngon, ngủ không yên là thương và ghét, nay thương ghét không bận lòng thì duỗi chân ngủ. Đức Phật cũng đã dạy người nào không bận đến chuyện thương ghét, hơn thua thì người đó ngủ ngon. Đoạn này Tổ cũng nói như vậy, ai mà yêu ghét không bận trong lòng thì duỗi thẳng hai chân nằm ngủ. Người đến giờ ngủ, duỗi chân ngủ khò, đó là người sung sướng. Chắc ai cũng muốn vậy mà làm không được là vì bỏ hai điều thương ghét chưa được, bỏ không được nên ngủ hết ngon! Đó là sự thật trăm phần trăm.
Dục nghĩ hóa tha nhân,
Tự tu hữu phương tiện,
Vật linh bỉ hữu nghi,
Tức thị Tự tánh hiện.
Tiếp theo Ngài dạy muốn lợi tha, muốn nghĩ giáo hóa người khác thì tự mình phải có phương tiện, tức là mình phải thông phải hiểu, như đoạn trước nói thuyết thông, tâm thông, đó là phương tiện đầu. Muốn giáo hóa người mà mình chưa có gì cả thì dạy người điều gì? Nhiều khi dạy không đúng khiến người đi quàng trong lùm bụi càng khổ hơn, cho nên muốn giáo hóa người thì trước chúng ta phải có phương tiện, chớ khiến người kia còn nghi ngờ. Dạy là để giải quyết nghi ngờ cho người thấy đạo, nếu chúng ta dạy mà người càng nghi, không biết thầy dạy có đúng lời Phật dạy không, thử hỏi dạy làm gì? Nếu họ không còn nghi tức là Tự tánh hiện. Chúng ta dạy cho họ hết nghi ngờ, tâm không còn thắc mắc băn khoăn thì phiền não lặng, phiền não lặng thì Tự tánh hiện, đó là căn bản giáo hóa.
Bốn câu kệ tiếp theo đây, hầu hết người đọc kinh Pháp Bảo Đàn đều thuộc.
Phật pháp tại thế gian,
Bất ly thế gian giác,
Ly thế mích Bồ-đề,
Kháp như cầu thố giác(1).
Phật pháp ở ngay nơi thế gian này, chớ không ở đâu xa lạ. Không thể lìa thế gian mà có sự giác ngộ. Đức Phật giác ngộ ngay nơi thân này, cảnh này. Vậy thì chúng ta giác ngộ cũng là giác ngộ ngay thân cảnh này. Tỉ dụ như ngay trong thân này chúng ta biết cái nào là giả, cái nào là thật, thấy được Chân tánh của mình thì đó là giác ngộ. Ngay nơi cảnh này chúng ta biết cái gì là tướng duyên hợp, biết rõ nó thì đó là giác. Như vậy là giác trên cảnh hiện tại, ngay nơi thân hiện tại. Thế nên nói: Không lìa thế gian mà có giác ngộ, nếu lìa thế gian mà tìm Bồ-đề (tức là cầu giác ngộ) giống như chúng ta tìm cái sừng của con thỏ. Tìm chừng nào được? Chính đoạn này nói lên tinh thần thực tế của Lục Tổ, Ngài chỉ cho chúng ta thấy rõ sự thật là như thế. Không phải chỉ Lục Tổ mà chư Tổ và cả đức Phật cũng là giác ngộ ngay nơi cảnh thế gian, vì thế bao nhiêu lời dạy của Phật, bao nhiêu kinh điển cũng chỉ thẳng cho chúng ta thấy được lẽ thật của cảnh thế gian này. Nếu bỏ thế gian mà tìm giác ngộ thì đó là chuyện xa xôi, vô nghĩa. Như vậy chủ yếu chúng ta muốn giác ngộ là phải giác ngộ ngay nơi thế gian.
Chánh kiến danh xuất thế,
Tà kiến thị thế gian,
Tà chánh tận đả khước,
Bồ-đề tánh uyển nhiên.
Chánh kiến gọi là xuất thế, tà kiến gọi là thế gian. Tại sao? Tà kiến là thấy lệch tức là hiểu lệch, kẹt vào hai bên, hoặc là chấp có chấp không, hoặc là chấp phải chấp quấy... Chấp lệch một bên là thế gian. Chánh kiến tức là thấy đúng, thấy không kẹt vào hai bên, đó là xuất thế. Cả hai “chánh” và “tà” đều dẹp hết thì tánh Bồ-đề hiện rõ ràng không nghi ngờ. Trong những đoạn trước Ngài nói yêu ghét không bận lòng thì ngủ ngon, hoặc tà chánh đều không dùng thì thanh tịnh đến vô dư. Trong đoạn này Ngài lặp lại một lần nữa: Cả hai “tà, chánh” đều dẹp thì tánh Bồ-đề sáng rỡ. Như vậy chúng ta thấy cốt yếu muốn tánh Bồ-đề hiện thì đừng kẹt hai bên, chớ không có gì lạ.
Thử tụng thị đốn giáo,
Diệc danh đại pháp thuyền,
Mê văn kinh lụy kiếp,
Ngộ tắc sát-na gian.
Bài tụng này gọi là đốn giáo, cũng gọi là thuyền đại pháp, thuyền pháp lớn. Người mê nghe thì trải qua nhiều kiếp, còn người ngộ nghe thì chỉ trong khoảng sát-na liền ngộ.
Tóm lại trong bài tụng này Ngài chỉ thẳng cho chúng ta biết rõ đâu là mê, đâu là ngộ. Tôi giản trạch chủ yếu Ngài dạy chúng ta tu hành là đừng kẹt ở hai bên.
Giai đoạn đầu khi tu phải giữ cái chánh bỏ cái tà, tà đến thì dẹp, chánh đến thì giữ, dùng chánh phá tà, khi tà hết rồi thì cái chánh cũng phải buông, tà chánh đều không dùng thì đến chỗ thanh tịnh.
Thứ hai là phải thấy mình chớ đừng thấy người. Thấy lỗi mình nghĩa là thấy từ vọng tưởng cho đến hành động, ngôn ngữ, điều gì sơ sót mình phải sửa. Tu là sửa, nếu không thấy lỗi thì làm sao sửa? Thế nên từ tâm niệm đến thân miệng, thấy được điều gì sai, điều gì lỗi thì sửa, đó là tu. Trái lại thấy người mà không thấy mình, đó là lỗi, đó là tạo nghiệp. Vì vậy muốn gần với đạo, người tu phải hằng thấy mình, đúng tinh thần nhà Thiền gọi là phản quan tự kỷ. Phản quan tức là soi lại, tự kỷ là chính mình, hằng soi lại chính mình, nhờ soi lại mới thấy mình lỗi, đó là tu. Chúng ta có tật là hay soi ra ngoài, con mắt luôn nhìn ra, vì thế chỉ thấy người khác mà không thấy mình. Nay phải nhìn trở vào, soi trở lại mình để thấy từng hành động, từng tâm niệm, thấy như vậy mới tu được, còn nếu chỉ thấy người là tu không được. Thế nên người tu Thiền là phải phản quan, đó là gốc của sự tu hành. Người nào thấy được mình thì cùng với đạo tương đương, tức là gần với đạo.
Điểm thứ ba, Ngài dạy chúng ta tu thì phải hằng dùng tâm chân chánh dẹp bỏ những tâm tà vạy, nhất là làm sao dứt sạch các thứ phiền não. Muốn dẹp sạch phiền não thì đừng bận lòng về sự yêu ghét. Yêu ghét không bận lòng thì phiền não theo đó dứt, trái lại nếu bận lòng về yêu ghét thì phiền não không dứt.
Điểm thứ tư, Ngài chỉ thẳng cho chúng ta thấy tu là tu ngay trong thế gian này chớ không phải ở nơi nào khác. Ngay trên thế gian mà tỉnh giác đó là tu, nếu bỏ thế gian để tìm nơi huyền bí nào, bỏ thế gian để cầu giác ngộ (thí dụ như xuất hồn vào trong hư không để tìm đạo) thì đối với Tổ cũng như tìm lông rùa, sừng thỏ. Phải ngay thế gian mà giác chớ đừng tìm cầu ở đâu xa.
Chúng ta thấy bài tụng tuy dài nhưng có thể tóm lại mấy điểm chánh yếu để làm then chốt cho sự tu hành. Nếu chúng ta hằng thấy hằng biết như vậy là chúng ta hằng tu, quí vị nhớ kỹ biết như vậy là tu, chớ không phải thuộc lòng bài tụng này là tu. Tôi nhắc lại một lần nữa: Yếu chỉ của Ngài dạy chúng ta là đừng thấy lỗi người mà phải thấy lỗi mình (điểm này tuy ở giữa nhưng đúng ra phải ở đầu) vì thấy như vậy rất cần thiết cho sự tu, kế đó phải bỏ hai bên, tà chánh đều buông, tiếp đến cả tắng ái cũng phải dẹp, sau cùng thấy rõ thế gian là đạo, chớ không phải tìm đạo ở ngoài thế gian.
Tổ lại bảo: “Nay ở chùa Đại Phạm nói pháp đốn giáo này, khắp nguyện cả pháp giới chúng sanh ngay lời nói này đều được thấy tánh thành Phật.” Khi ấy Vi sử quân cùng quan liêu đạo tục nghe Tổ nói, không ai mà chẳng tỉnh ngộ, đồng thời làm lễ đều tán thán: “Lành thay! Đâu ngờ ở Lãnh Nam có Phật ra đời!”
Mọi người đều hoan hỉ tán thán: Đâu ngờ ở Lãnh Nam có Phật ra đời. Vì những lời Tổ nói giống như lời Phật dạy nên khen Ngài cũng như là Phật vậy. Tất cả không ai mà chẳng tỉnh ngộ, quí vị nghe có tỉnh chưa? Điều đó là cần đấy! Phải ráng tỉnh!

(còn tiếp)

0 Kommentare:

New Comments

Chia Sẻ

Twitter Delicious Facebook Digg Stumbleupon Favorites